Nguồn: Sưu tập
Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng v.v… Xưa tại Ấn Ðộ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại thế, dùng nó để tập họp chúng Tăng bố tát, nghe pháp…
Ngũ Phần Luật có ghi: “Chư Tỳ-kheo bố – tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”. Trong kinh Lăng Nghiêm chép: Đức Phật dạy: “Này A Nan! Ông hãy nghe tiếng trống mỗi khi dọn cơm xong, nghe tiếng chuông mỗi khi nhóm họp đại chúng trong Tịnh xá Kỳ Ðà Hoàn nầy. Tiếng trống hoặc tiếng chuông ấy trước sau nối tiếp nhau. Vậy, theo ý ông, mỗi khi ông nghe được các thứ tiếng ấy là vì nó tự bay đến bên tai ông, hay tai ông đến nơi chỗ phát tiếng ấy?”. (Đây là lúc đức Phật chỉ cái Tâm cho ngài A Nan)
Trung Hoa thời xưa dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội... Có loại lớn, loại nhỏ, loại treo hoặc để trên giá... Trống lớn gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh gọi là trống treo...
Từ đời Ðường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau này Phật Giáo Trung Hoa tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng Trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là “kỹ nhạc cúng dường; trang nghiêm đạo tràng”, dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam Bảo.
Ai đã đưa Trống vào tự viện? Năm nào? Chúng tôi chưa tìm ra tài liệu để đưa ra một giả thuyết khả dĩ. Tuy nhiên, dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại Điên và Hàn Dũ thời Đường Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ Phật giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được là trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí.
Ngày nay, có một vài nghi thức tán tụng ở miền Trung và miền Nam Việt Nam sử dụng Trống nhỏ để hỗ trợ cho chư Tăng Ni khi tán tụng. Các loại nghi thức tán tụng này có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, vì các thời tụng niệm của Phật giáo Trung Hoa đều có tán, và loại trống nhỏ này cũng được xem như một loại pháp khí.
Trống sử dụng trong chùa chiền, tự viện có hai loại:
a. Trống lớn (dân gian quen gọi là đại cổ; tiếng bình dân Việt Nam còn gọi là trống đại): Đánh vào những buổi lễ Phật và các dịp lễ lớn gọi là trống Bát Nhã.
b. Trống nhỏ (dân gian quen gọi là tiểu cổ; tiếng bình dân Việt Nam còn gọi là trống cơm): Dùng để đánh mỗi khi tụng kinh nên cũng được gọi là trống kinh. Ngoài việc dùng đánh khi tụng kinh hằng ngày vào hai thời công phu khuya và chiều trong các tự viện, còn có rất nhiều thể điệu khác nhau khi dùng trong tang lễ, chẩn tế cô hồn v.v…
Chuông trống Bát Nhã:
Tiếng chuông trống Bát Nhã đánh lên để cung thỉnh Phật đăng bảo tọa. Sở dĩ gọi là Bát-nhã (phiên âm của từ ngữ “prajnaa” của chữ Sanskrit có nghĩa là “trí tuệ”) vì công năng của chúng là để thức tỉnh lòng người, có khả năng đánh động tâm linh của người nghe. (Trống thăng long)
Thật ra nhóm từ ngữ “chuông trống Bát Nhã” là để chỉ nghi thức đánh chuông và trống theo bài kệ “Bát Nhã Hội”. Đây là một nghi thức hành lễ Phật Giáo Trung Hoa truyền sang Việt Nam, có lẽ xuất phát từ Không Tông, do nghi thức rất trang trọng nên dần dần chùa chiền các Tông phái khác áp dụng theo.
Có nhiều cách đánh chuông trống Bát Nhã nhưng hầu hết chùa chiền Việt Nam áp dụng cách thỉnh chuông trống Bát Nhã theo bài kệ Bát Nhã Hội nói trên như sau:
Bát nhã hội,
Thỉnh Phật thượng đường.
Đại chúng đồng văn,
Bát nhã âm.
Phổ nguyện pháp giới,
Đẳng hữu tình,
Nhập Bát nhã,
Ba la mật môn.
Nghĩa là:
Thỉnh Phật thượng đường.
Đại chúng đồng văn,
Bát nhã âm.
Phổ nguyện pháp giới,
Đẳng hữu tình,
Nhập Bát nhã,
Ba la mật môn.
Hội Bát nhã,
Thỉnh Phật lên tòa,
Đại chúng đều nghe:
Âm Bát nhã.
Nguyện khắp pháp giới,
Chúng hữu tình,
Nhập Bát nhã,
Chứng Ba la mật.
Có lẽ khởi đầu chuông trống Bát Nhã chỉ chính thức cử lên trong những nghi lễ lớn của Phật Giáo, hoặc để thỉnh Phật chứng minh cho lễ kỹ niệm lớn; hoặc Giới đàn; hay bậc Ðại sư đăng đàn thuyết pháp, bởi vì trong bài kệ có câu “Thỉnh Phật thượng đường”. Ngày nay các chùa chiền còn dùng để đón rước chư Tăng, Ni. Dẫu cho là đón rước một vị Ðại sư hay Danh tăng đến viếng chùa, liệu có lạm dụng chăng?
III. Nguồn gốc và ý nghĩa của MÕ:
Nguồn: Sưu tập
Theo sách Tam Tài Đồ Hội của Vương Tích đời Minh có đoạn: “Mõ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật Tử khi tán tụng đều dùng đến nó”.
Sách Tham Thiền Ngũ Đài Sơn Ký (quyển 3), Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5 ngày mồng 8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại Sỹ. Mỗi khi Ngài muốn gặp các vị tu hạnh đầu đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị sau khi nghe tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi đều dùng mõ để tập họp đại chúng.
Theo sách Thích Thị Yếu Lãm ghi rằng: Chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, mõ đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tập họp nên các loại đó đều gọi là Kiền Chuỳ.
Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoặc khi phổ thỉnh chúng Tăng đều gõ mõ. Từ đây chúng ta có thể hiểu lúc đầu mõ (loại mõ điếu – hình dài) dài được dùng để tập họp Tăng chúng.
Lại có người cho rằng mõ là do Sa-môn Chí Lâm đời Đường tạo ra, nhưng điều này cũng không lấy gì làm chắc, vì không có sử liệu rõ ràng.
Mõ có 2 loại:
a)Mõ hình hình bầu dục (thường mô phỏng hình con cá có vảy cuộn tròn): Dùng khi tụng kinh. Được dùng tại Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và một số quốc gia khác. Loại mõ này được nói là xuất hiện vào triều đại nhà Minh, Trung Hoa (?). Tiếng mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng khi tụng kinh được nhịp nhàng; vừa giữ cho buổi lễ được trang nghiêm lại vừa giữ cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành lễ. Bởi vậy, người đánh mõ gọi là Duyệt Chúng, ý nghĩa muốn diễn đạt là làm đẹp lòng mọi người trong lúc cùng tụng kinh với nhau.
b) Mõ hình điếu (thường mô phỏng hình con cá dài thẳng): Treo ở Trai đường, nhà trù… dùng để báo hiệu cho đại chúng khi thọ trai hay chấp tác. Loại mõ này chỉ dùng trong các chùa cổ Trung Hoa; các chùa chiền, tự viện Việt Nam không dùng (thường chỉ gõ khánh hay bản). Ngoài ra, cũng có một loại mõ rất nhỏ dùng để chư Tăng Ni niệm Phật khi đi kinh hành (nhiễu Phật).
Nhưng vì sao cả 2 loại mõ đều khắc hình con cá? Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy nói rằng vì loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ, chúng ta tự nhắc mình phải tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi.
Sách Chính Ngôn đời nhà Đường, Trung Hoa chép:
“Có một người bạch y đến hỏi một vị Trưởng lão ở Thiên Trúc rằng:
- Tại sao các Tăng xá đều có treo mõ?
Vị trưởng lão trả lời:
- Vì để cảnh tĩnh chúng Tăng tại Tăng xá hay tự viện ấy.
Người bạch y hỏi tiếp:
- Nhưng tại sao lại tạc hình con cá?
Vị Trưởng lão không trả lời được. Người bạch y lại hỏi ngài Hộ Biện và được ngài giải thích rằng:
- Loài cá là loài không bao giờ nhắm mắt và thích hoạt động. Cũng vì muốn cho người tu hành ngày đêm quên ngủ, gắng công tu tập, mau chứng đạo quả nên treo và đánh mõ và cái mõ được tạc hình con cá vậy.”
Sách Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy (quyển hạ, phần pháp khí) cũng có ghi lại truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản thầy, huỷ pháp mà bị đoạ làm thân cá, trên lưng con cá ấy lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng to gió lớn, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, vị Thầy Bổn Sư qua biển, nhân đó nó muốn đòi nợ liền nói rằng: Thầy không dạy bảo nó nên nó mới phải bị đoạ làm thân cá như thế này, do đó nay nó muốn báo oán. Thế rồi, vị Thầy ấy bảo cá nên ăn năn sám hối, Thầy ấy cũng vì con cá mà cầu siêu chú nguyện và ngay đêm ấy nó được hóa kiếp. Vị Thầy Bổn Sư liền đem cây ấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh tỉnh đại chúng. Có thể vì lý do này các mõ tròn sau này cũng hay khắc hình con cá trên mõ để cảnh tỉnh đại chúng.
IV. KHÁNH:
Nguồn: Sưu tập
Sách Tượng Khí Tiêu quyển thứ 18 chép: “Ngài Vân Chương nói: hình của bản giống như đám mây, nên người ta cũng thường gọi tên của bảng là Vân Bản.” Ngài Tục Sự Lão cũng có thuật: “Vua Tống Thái Tổ cho rằng, tiếng trống hay làm giật mình người ngủ, nên thay vì dùng Trống, vua Tống Thái Tổ chế dùng thiết khánh (khánh bảng thiết).” Loại khánh này cũng gọi là chinh, tức là vân bản vậy.
Khánh tiếng Phạn là Kiền Chùy (trong luật Phật thường gọi là Kiền Chùy Thành), dịch là chuông hay khánh.
Khánh cũng là một pháp khí như bảng. Cách dùng cũng tương tự nhau, chỉ có hình thức và nguyên liệu chế tác là khác nhau thôi. Hình dạng của bảng là hình bát giác và làm bằng gỗ, còn hình dạng của khánh thì làm theo hình bán nguyệt và đúc bằng đồng, hoặc có khi làm bằng đá cẩm thạch.
Ngày nay trong các tự viện, khánh làm bằng đồng chừng bằng cái đĩa lớn, treo trong một cái giá gỗ, thường dùng để báo hiệu trong phạm vi nhỏ, chẳng hạn như để báo thọ trai hay khi thỉnh một vị Tăng, Ni từ trong liêu ra Pháp đường; hoặc đón rước một vị đại sư hay danh tăng đến tự viện, nghi lễ nầy đi trước là khay lễ gồm nhang, đèn, hoa, quả, kế theo là một vị cầm khánh treo trong giá, vừa đi vừa đánh khánh rồi tiếp theo là vị được đón rước theo sau - có thể có cả lọng – rồi mới tiếp đến những Tăng Ni khác tùy theo phẩm trật xếp thành thứ tự.
Những vị Tăng Ni nhập đại định, muốn báo cho vị ấy xuất định, người ta cũng dùng tiếng khánh để cảnh tĩnh.
V. BẢN
Bản là một tấm gỗ dày chừng 2 phân, dài chừng 4 hay 5 tấc, cao chừng 3 tấc, thường được treo trong tự viện, được gõ 3 lần trong ngày: bình minh, hoàng hôn và trước khi đi ngủ.
Bản cũng được thay thế cho trống và dùng trong những trường hợp như báo tin giờ thọ trai, giờ tu học, nhóm họp Tăng-già để nghị bàn Phật sự hoặc phân xử các lỗi lầm v.v… của chúng Tăng trong Già Lam.
Người ta thường thấy những câu sau đây khắc trên bản:
Hãy nghe đây chư Tăng! Hãy tinh tiến trong việc tu tập! Thời gian bay qua nhanh như mũi tên; nó chẳng chờ ai đâu !
Vài ý niệm về sử dụng chuông, trống, khánh… tại Ấn Ðộ và các nước khác:
Theo cuốn A Dictionary of Symbols (London, 1962, trang 23) cho rằng âm thanh của chuông là biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời và đất. Hình dáng của chuông xuất phát lấy từ hình tượng vòm trời.
Ấn Độ đã biết sử dụng chuông trên 2000 năm về trước và có lẽ chuông được sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật Giáo có thể được tìm thấy trên các bức phù điêu trên các trụ đá của vua Asoka (A-dục) và các tháp tôn trí xá lợi của đức Phật. Không phải tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn nền văn hóa tư tưởng Ấn Ðộ như Tích Lan, Miến Ðiện cũng sử dụng chuông, và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, và đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa lễ.
Trong các dịp tưởng niệm đức Phật, các chuông được sử dụng cùng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính đức Phật. Tác phẩm Saddharmàlankàra, một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Tích Lan ghi rằng: Chuông được sử dụng đầu tiên ở Tích Lan vào những dịp đặc biệt như triệu tập Tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ cúng dường âm nhạc (‘sabda-pùjà) cho đức Phật.
Tín đồ Phật Giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi đau khổ của cuộc đời. Cho nên Phật Giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm và cả những chuông lăn lớn để tín đồ quay.
Dĩ nhiên các loại chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Hoa hay Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Trung Hoa trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trong các buổi lễ tế giao của Thiên tử không thấy đề cập đến sử dụng các loại nhạc khí nầy. Trống phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhân ở pháp trường.
Sự mầu nhiệm của tiếng khánh:
Theo như các Thiền sử ghi lại qua các hành trạng của một số vị Thiền Sư, thì tiếng khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi Thiền giả đã vào các tầng thiền như “Diệt thọ tưởng định” thì dù có trời long đất lở thân tâm của vị ấy cũng bất động. Tuy nhiên, chỉ với một vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức các ngài dậy. Câu chuyện ngài Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định xuất thần kéo dài cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức ngài xuất định.
Chuông trống Bát Nhã có công dụng gì trong chùa?
Tại mỗi chùa khi cử hành lễ, trước giờ khởi sự và sau khi chấm dứt cuộc lễ đều có thỉnh chuông trống Bát Nhã.
Chuông trống Bát Nhã dùng để thỉnh Phật Tổ và thỉnh chư Tăng cùng nhau hướng về Phật điện để chứng minh cho buổi lễ sắp diễn ra được thanh tịnh trang nghiêm.
Âm vang của chuông trống Bát Nhã sẽ hòa nhập theo cùng với trí tuệ sáng suốt của chư Phật thành một thể tánh duy nhất.
Thường thường chuông trống Bát Nhã được cử lên ba hồi lúc bắt đầu cuộc lễ, nhưng khi chấm dứt có thể chỉ thỉnh một hồi và cũng đọc bài kệ như trên.
Ngoài việc đón rước và đưa tiển chư Phật; Hộ Pháp; chư Tăng… việc đánh chuông trống Bát Nhã còn tượng trưng cho ý nghĩa tinh thần rất lớn là nhân tiếng chuông trống để mọi người có mặt trong giờ sắp hành lễ đều chú tâm vào việc nhiếp tâm cầu nguyện.
Thật vậy, khi nghe tiếng chuông trống Bát Nhã gióng lên ai nấy trong chánh điện đều đứng dậy chấp tay cầu nguyện, đồng thời tâm hồn người nghe cũng cảm thấy như lắng lặng thanh thoát. Về lịch sử, chuông trống Bát Nhã không rõ do ai bày ra, nhưng Phật Giáo các nước thuộc vùng Đông Nam Á châu đều xử dụng cùng một mục đích và với một ý nghĩa về tinh thần rất lớn lao vậy.
Muốn cho cuộc lễ được trang nghiêm và thành kính, chuông trống Bát Nhã không thể thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.
Nguồn: thuviengdpt.info