265 lượt xem

CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA - Kỳ 4

TAM TẠNG KINH

Từ khi Đức Phật thành đạo, Ngài chỉ thuyết giảng giáo pháp bằng kim khẩu và mãi trên 200 năm sau khi Ngài nhập Niết bàn với 3 lần kết tập, giáo pháp vẫn còn giữ được tính chất nguyên thủy của đạo Phật. Thời kỳ nguyên thủy kéo dài đến hơn 600 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, rồi lần lượt xuất hiện các vị luận sư uyên bác của Đại thừa bắt đầu là ngài Mã Minh, rồi tới ngài Long Thọ và sau cùng là ngài Vô Trước và em là sư Thế Thân. Thời kỳ này kéo dài từ 600 đến 1000 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn.

Phật giáo Đại thừa được chia làm hai trường phái triết học chính là phái Trung Luận của triết gia Long Thọ và phái Du già của sư Vô Trước. Tại Ấn Độ, những kinh điển liên quan đến Đại thừa hoàn toàn bị thất lạc, có lẽ do sự tàn phá hũy diệt tất cả những tu viện lớn của đạo quân Hồi giáo vào thế kỷ thứ 12. Ngày nay chỉ còn những bản dịch sang Hoa ngữ, Nhật ngữ và Tạng ngữ vẫn còn được lưu giữ. Vào năm 1833, ông Brian Houghton Hodgson được cử làm đặc sứ tại Kàthamandu ở Nepal cho đến năm 1843. Trong thời gian ở tại Nepal, ông phát hiện được 381 cuốn kinh Phật bằng Phạn văn nguyên bản. Điều đặc biệt là kinh Phật bằng tiếng Phạn rất khác với kinh điển tiếng Pali và kinh tiếng Phạn này lại rất giống với các bộ kinh Phật giáo tại các nước Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng. Trong số những Phạn kinh có bộ Trung Luận (Madhyamaka Sàtra) của Long Thọ và bản chú thích Minh Cú Luận (Prasannapadà) của Nguyệt Xứng (Candrakìrti).

Phái Trung Quán được thành lập bởi ngài Long Thọ vào những năm 150 sau dương lịch. Ngài được xem là một trong những kỳ tài vào thời đại đó của xứ Ấn Độ. Chính tư tưởng Trung Quán là xương sống cho Phật giáo Đại thừa khi truyền sang Trung Hoa và cũng là yếu chỉ cho Phật giáo Mật tông Tây Tạng. Triết lý Trung Quán Luận là một học thuyết biện luận đưa đến sự hoài nghi tất cả mọi hiện sinh và cho rằng tất cả mọi sự vật đều là giả tạo vì chúng không có tự tánh, không có chủ thể. Vì thế con đường giải thoát là phải buông bỏ hết cho đến khi chỉ còn lại cái tánh không tuyệt đối thì lúc ấy giải thoát sẽ được đạt đến. Trên căn bản, học thuyết Bát Nhã của Long Thọ đặt trong tâm vào hai chân lý tục đế và chân đế. Long Thọ cho rằng mặc dù chân lý có hai cấp bậc (chân-tục), nhưng chỉ có thực thể mới là chân lý tối thượng. Đó là cảnh giới bất sinh bất diệt, không bao giờ thay đổi, luôn luôn là “cái tự bao giờ đã là” và dĩ nhiên trong đó không còn sự khác biệt giữa sanh tử và Niết bàn, hay phiền não và Bồ-đề. Trong Trung Luận, chúng ta có thể thấy rõ rằng Chân lý Tánh Không của Long Thọ được áp dụng rộng rãi qua biện chứng pháp về “Bát Không”. Đó là “không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không đồng, không dị, không lai, không khứ”. Giáo lý nhị đế (tục đế, chân đế) thật ra cũng chẳng xa lạ gì đối với Phật giáo Nguyên thủy. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài không bao giờ nói về nhị đế hay Bát Nhã, nhưng trong Tứ Thánh Đế đã ngầm chứa nhị đế rồi. Tục đế là nói về thế giới hữu vi, hữu hình, hữu sanh, hữu diệt trong khi đó chân đế là diễn tả về tánh không tối thượng tức là chơn không. Đức Phật giảng giải Tứ Diệu Đế mà trong đó Tập đế (nguyên nhân khổ), Khổ đế (các loại khổ) và Đạo đế (con đường diệt khổ) là nói về Tục đế và Diệt đế tức là giải thoát Niết bàn tức là Chân đế của Long Thọ vậy. Ở đây tánh không tối thượng của Long Thọ tức là Niết bàn của Đức Phật.

Tuy tư tưởng Du Già đã bắt đầu hình thành vào thời Long Thọ, nhưng mãi đến mấy thế kỷ sau triết lý này mới được phát huy đến mức tận cùng bởi luận sư Vô Trước và người em là sư Thế Thân. Phái Du Già tin vào chủ nghĩa “duy tâm siêu hình” mà theo đó tâm thức sáng tạo ra đối tượng của nó nhờ vào những năng lực tiềm ẩn nội tại. Thế Thân lý luận rằng tất cả vạn hữu trong thế giới hữu vi này mà con người biết được, trong thực tế đều chỉ là cấu trúc của tâm thức bởi vì những vật thể đó cũng chỉ là sự thông giải do tâm trí của con người đặt ra. Dưới mắt các học giả Tây phương, Du Già là một triết học mang tính duy tâm chủ nghĩa (idealism) vì nó lấy sự thông giải tâm thần các kinh nghiệm của con người làm điểm phát xuất. Nói cách khác, tâm thức tự nó hiện hữu mà không cần có bất cứ đối tượng nào. Dựa theo Vô Trước, sự giải thoát chỉ có thể thực hiện được khi nào con người có thể tạo ra được một nhận thức thuần túy nghĩa là chỉ thuần có tâm thức và không lệ thuộc vào phạm trù đối đãi của nhị nguyên. Chẳng những Vô Trước là nhà biện luận xuất sắc, sư có người em là Thế Thân tài trí cũng không kém. Công trình chính của Thế Thân là hệ thống hóa tư tưởng Du Già hành tông của sư huynh Vô Trước thành Duy thức tông và là tác giả cuốn Duy thức tam thập tụng mà một trong những công dụng là giải thích những khúc ẩn trong bát thức tâm vương, đặc biệt là Mạt-na thức và A-lại-da thức. Ngài Huyền Trang đến Ấn Độ tu học vào thế kỷ thứ 7 tại tu viện Na Lan Đà đã chú giải bộ Duy Thức Tam thập tụng của sư Thế Thân và khi về lại Trung quốc đã dịch lại là Thành duy thức luận. Tuy Duy thức là tác phẩm của Vô Trước, Thế Thân nhưng họ đã trích dẫn một phần về sự biến hành của tâm trong bộ luận Vi Diệu Pháp của Phật giáo Nguyên thủy và từ đó khai triển thêm Mạt na thức và A lại da thức để trở thành Bát thức tâm vương.

Dựa theo tư tưởng Trung Quán của Long Thọ và Du Già của Vô trước thì chúng ta đang sống trong cái thế giới đa dạng và phong phú với những hóa tướng, tập tục và truyền thống cho nên nó đã thối thúc con người đi tìm sự bí mật về chân tướng của sự vật, cái thực tại tuyệt đối (Ultimate Reality)(Phật giáo Mật tông Tây tạng thường gọi). Họ khẳng định rằng cái thực tại này chính là ở ngay trong những hóa tướng này. Trong khi Phật giáo Nguyên thủy chỉ chú trọng vào Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) và chân lý Vô Ngã, phái Du Già (Duy Thức) của Vô Trước chú trọng đến tam tánh (viên thành Phật tánh, y tha khởi tánh, biến kế sở chấp tánh) thì Trung Quán tông của Long Thọ đưa ra những lý luận rất sâu sắc về Nhị Đế (Tục Đế, Chân Đế). Tóm lại, phái Du Già chú trọng về mặt tâm lý và tin rằng cái tuyệt đối nếu đứng về phương diện thực dụng thì có thể được diễn tả như là tâm, ý hay thức. Do đó, lý thuyết của Du Già là một thứ chủ nghĩa duy tâm siêu hình.

Hai trường phái Trung quán và Du già rõ ràng là hoàn toàn khác biệt nhau về con đường cũng như cứu cánh giải thoát cho nên sự tranh cải giữa hai tư tưởng thường hay xảy ra. Đối với những người tin theo phái Trung luận thì cho rằng giáo lý của phái Du Già có vẽ như là một sự sai lầm, quá ảo tưởng nên không thể hiểu được. Trong khi đó, phái Du Già xem giáo lý Trung luận chỉ là điểm khởi đầu, nhưng đã đi chênh lệch đường hướng chân lý và cốt tủy bí truyền của Phật giáo. Long Thọ phát triển những giáo lý thâm diệu của “tánh không” dựa vào căn bản trí của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, trong khi đó Vô Trước và Thế Thân đi theo con đường “Duy thức” của Bồ Tát Di Lặc. Hai tư tưởng căn bản trí và duy thức được mô phỏng rất rõ ràng trong Kinh Pháp Hoa.

Hai trường phái Trung quán và Duy thức rõ ràng có những mâu thuẩn về tư tưởng triết học. Trường phái này đua nhau tranh chấp, cải vả vì không chấp nhận lý luận hay tư tưởng của trường phái khác. Đến khoảng 1100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, Tổ Bồ Đề Đạt Ma xuất hiện ở Trung Hoa và đưa ra tuyên ngôn đanh thép rằng: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Tại sao? Bởi vì ngài đã quá chán ngán với bao tranh cải, biện chứng, kinh này giáo nọ và không còn tin vào văn tự hay những luận giải bóng bẩy cao siêu ấy của các luận sư Đại thừa nữa. Văn chương, chữ nghĩa, luận giải đã cải vả nhau cả ngàn năm rồi mà cũng chẳng tới đâu. Kết quả, lịch sử Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung Hoa và Tây tạng bắt đầu từ những thế kỷ thứ 6, thứ 7 ảnh hưởng đến cách áp dụng và thực hành cũng khác nhau. Trong khi Phật giáo Mật tông Tây tạng chỉ hành trì dựa vào Trung Quán và Duy thức thì ở Trung Hoa, Thiền tông dựa theo tư tưởng của Tổ Bồ Đề Đạt Ma được phổ biến sâu rộng và đạt đến đỉnh cao nhất vào thời Lục Tổ Huệ Năng. Phải nhận định thật rõ ràng (Without a doubt) rằng Phật giáo Đại thừa là Phật giáo phát triển cho nên từ ngày Đại thừa xuất hiện cho tới ngày nay phát hiện rất nhiều luồng tư tưởng của chư Tổ, nhưng tựu trung chỉ có ba luồng triết học chính: một là Trung Quán (Bát Nhã) của Long Thọ, hai là Duy thức của Vô Trước, Thế Thân và sau cùng là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Giáo lý Nguyên thủy của Đức Phật chỉ có hai chân lý là Tứ Diệu Đế và Vô Ngã. Chân lý là sự thật, đúng ở bất cứ không gian và thời gian nào, đúng ở ngay cả trong cái thế giới tương đối, tục đế này và bất ai cũng có thể áp dụng nó để có một kết quả giống nhau. Ngược lại, luận giải của chư Tổ thì đúng với trường phái này mà lại không thích hợp đối với trường phái khác cho nên các trường phái luôn cải vả với nhau là như vậy. Có người lý luận rằng lời Phật thuyết là kinh, còn lời chư Tổ là luận. Đó là Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh; Trung Quán Luận và Đại Trí Độ Luận của Long Thọ; Đại Thừa Nhiếp Luận Tông, A Tỳ Đạt Ma Tập Luận, Du Già Sư Địa Luận của Vô Trước ngay cả tác phẩm của Tổ Bồ-đề Đạt Ma là Tuyệt Quán Luận (Đạt Ma Tổ Sư Luận). Nhưng Bát Nhã Tâm Kinh do Long Thọ viết và Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng thì tại sao không gọi là luận mà lại gọi là kinh?

Hiện nay, Phật giáo Nguyên thủy có đủ Ngũ Bộ Kinh Nikayas bằng tiếng Pali là:

1)Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) gồm 36 phẩm trong 3 phần.

2)Trung Bộ Kinh (Majjhima) gồm 153 phẩm.

3)Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) gồm 56 chương xếp theo từng loại chủ đề.

4)Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara) các phẩm đánh số theo thứ tự các con số.

5)Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) gồm 15 kinh trong đó có kinh Pháp Cú và các bài kệ của tăng ni đã đạt thánh quả A la hán. Các kinh này phát xuất từ nhiều bộ phái trước khi Nguyên thủy bị phân hóa, dù phần lớn vẫn được xem là Nguyên thủy.

Phật giáo vào thời Nguyên Thủy chỉ có Kinh tạng và Luật tạng và truyền thống đó vẫn được lưu giữ sau hai lần kết tập kinh điển đầu tiên. Cho tới lần kết tập kinh điển lần thứ ba khoảng 250 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt thì Vi Diệu Pháp mới được giới thiệu và được xem như là luận tạng đầu tiên và sau đó có Thanh Tịnh Đạo. Cũng xin nhắc lại, vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài giảng dạy rải rác khắp mọi nơi ở Ấn Độ cho nên về sau chư Thánh tăng đem gom góp lại những bài pháp thoại đó và chú giải thêm nên gọi là Vi Diệu Pháp. Mặc dầu Vi Diệu Pháp được gọi là luận, nhưng đây là những lời dạy của Đức Phật. Trong khi đó, luận bên Phật giáo Đại thừa là những lời dạy, kiến giải của chư Tổ ở những thế hệ về sau chẳng hạn như Đạt Ma Tổ Sư Luận của Tổ Bồ Đề Đạt Ma…Mãi về sau ngài Vô Trước, Thế Thân chuyển một phần của Vi Diệu Pháp để thành lập riêng một hệ tư tưởng mới cho Phật giáo Đại thừa. Đó là Duy thức luận (Thành Duy thức).

Nói chung các bộ kinh thuộc hệ Nguyên Thủy nói về Chân lý Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên chứa đựng trong ngũ bộ kinh Nikayas. Còn các bộ luật của Phật giáo Nguyên Thủy từ xưa đã có 5 bộ: Tứ Phần của Đàm-vô-đức, luật Thập tụng của Tát-bà-đa, luật Ngũ Phần của Di-sa-tắc-bộ, luật Giải Thoát của Ca-Diếp-di và luật Ma-ha-tăng-kì của Ma-ha-tăng-kì.

Bây giờ, viết bằng tiếng Phạn (Sanskrit) có kinh tương đương với Ngũ Bộ Kinh Nikayas là kinh A Hàm (Agamas), được biên tập khoảng 5 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt. Sau đó kinh A Hàm được dịch sang chữ Hán. Agamas có nghĩa là truyền thừa. Nguyên bản tiếng Phạn đã mất dấu tích vì bị đạo quân Hồi giáo hũy diệt. Nhưng các bản dịch chữ Hán, chữ Nhật, chữ Tây Tạng vẫn còn.

1)Trường A Hàm (Dirgha-Agama) (30 kinh) tương đương với Trường Bộ Kinh (Pali).

2)Trung A Hàm (Madhyamagama) gồm 222 kinh, tương đương với Trung Bộ Kinh.

3)Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1361 kinh, tương đương với Tương Ưng Bộ Kinh.

4)Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với Tăng Chi Bộ Kinh.

5)Ksudraka-Agama tương đương với Tiểu Bộ Kinh.

Trong khi đó, kinh điển Phật giáo Đại thừa có rất nhiều, nhưng đại để cũng thuộc về năm loại chính sau đây:

1)Bát Nhã (Prajnaparamita – Perfection of Wisdom) gồm trên 600 quyển mà Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra) là cốt tủy và kinh Kim Cang là kinh rút gọn lại. Học giả Tây phương gọi Bát Nhã là The Mother of all Mothers.

2)Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka-Flower Ornament) có ba bộ lớn mà một bản có tên là Gandavyuha (World Array Sutra).

3)Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti Sutra) nhấn mạnh vai trò của cư sĩ Bồ-tát Duy Ma Cật.

4)Kinh Đại Niết Bàn (Nirvara-Parinivara) diễn tả lại những ngày cuối cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập diệt.

5)Kinh Pháp Hoa (Sadharma pundarila – The Lotus Sutra), Kinh Lăng Già (Lankavatara) và Kinh A Di Đà hay Vô Lượng Thọ (Sukhavati –vyuha).

Mặc dù kinh điển chỉ được thực hiện bằng chữ viết lần đầu tiên sau lần kết tập kinh điển lần thứ tư khoảng năm 70 trước công nguyên nghĩa là gần trên 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Tuy thế mức độ khả tín của Ngũ Bộ Kinh Nikayas (Pali) tương đối khá cao có thể nói trên 95% cho dù trong quá trình truyền miệng qua nhiều thế hệ thì thế nào cũng có chuyện sai lạc ít nhiều, tam sao thất bản là chuyện thường. Trong khi đó, mức độ khả tín của kinh điển Đại thừa trầm trọng hơn nhiều. Vì sự tiêu hoại những tu viện lớn ở Ấn Độ bởi người Hồi giáo nên kinh điển Đại thừa bản gốc không còn dấu tích ở Ấn Độ mà chỉ có các bản dịch ở Tây Tạng hay ở Trung Hoa. Ngay cả giới luật cũng sai khác rất nhiều bởi vì lúc khởi nguyên, đoàn thể tăng già Đại thừa chưa được thành lập nên chưa có giới luật. Về sau, khi các đoàn thể tăng già được thành lập như ở tu viện Nalanda, Vikramasila, giới luật mới dần dần được thiết lập.

Dựa theo học giả Mizuno, kinh Bát Nhã tương truyền là do sư Long Thọ chế biến từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên rồi sau đó những kinh điển khác như Pháp Hoa cũng lần lượt ra đời. Ở Ấn Độ sự tranh chấp giữa Nguyên thủy và Đại thừa có phần quyết liệt vì Nguyên thủy cho rằng Đại thừa đem những tư tưởng tín ngưỡng, thờ đa thần của Ấn Độ giáo vào để phá hoại giáo pháp chính thống của Đức Phật vốn không hề có tín ngưỡng. Nhắc lại, một nguyên nhân lớn lót đường cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ là Ấn Độ giáo (Hindu là hậu thân của đạo Bà la môn) đã thần thánh hóa Đức Phật và họ còn đưa ra một số thần và nữ thần Ấn Độ giáo vào làm các vị thần Phật giáo dưới dạng những Bồ-tát làm cho Phật giáo không còn khác biệt với các thần thánh của Ấn Độ giáo. Chính điều này đã xóa tan sự khác biệt giữa hai tôn giáo và họ chứng minh rằng Phật giáo chỉ là một tông phái của Ấn Độ giáo. Nhưng ở Trung Hoa, đoàn thể tăng già lại chấp nhận kinh điển Đại thừa như phản ảnh lời dạy chân thật của Đức Phật mà không hề có nghi vấn dựa theo tiến trình phát triển lịch sử. Phật giáo Đại thừa Trung quốc không dựa theo giới luật Nguyên thủy mà dựa vào kinh Phạm Võng, một kinh được xem như là tác phẩm của Trung Hoa. Mizuno viết tiếp:” Ở Trung Hoa có một số tăng như Huệ Tạo, T’an Le và Seng Yuan chỉ trích những kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa và kinh Đại Bát Niết Bàn nhưng các sư này bị bịt miệng ngay, không cho phép nói lên sự thật”.

Nhắc lại, Bản Khai Nguyên Thích Giáo Lục do ngài Trí Thăng biên soạn năm 730 sau công nguyên là bản mục lục ghi lại tất cả rất chi tiết những kinh được dịch từ nguyên bản tiếng Phạn sang chữ Hán là 1076 kinh. Trong đó có đến 392 là kinh giả và 14 kinh khác có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Như thế số kinh giả và không đáng tin cậy đã chiếm đến một phần ba. Nếu con số nêu trên là đúng thì kinh điển Đại thừa thật sự có vấn đề. Để có một ý tưởng rõ ràng về chân hay giả, hãy quay về nghe lại những lời Đức Phật dạy trong kinh Kalama rằng:

"Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành".

Do đó muốn tự mình nhận biết kinh nào phát xuất từ kim khẩu, kinh nào do người sau sáng chế thì chỉ có một con đường duy nhất là nghiên cứu đọc kỹ lại Ngũ Bộ Kinh NiKayas (hoặc toàn bộ Kinh A Hàm) rồi so sánh với những kinh điển Đại thừa. Nếu giáo lý nào không có trong Ngũ Bộ Kinh thì phần đó được chư Tổ thêm vào ở những thế hệ về sau. Mặc dù chư Tổ có những kiến giải rất thâm sâu về thế giới siêu hình về vũ trụ, nhưng kiến giải của chư Tổ không thể nào so sánh với trí tuệ Chánh Biến Tri của Đức Phật được. Bằng chứng là cần trải qua nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ, những tư tưởng về thế giới siêu hình Như Lai tạng và A lại da thức mới được hoàn chỉnh. Tuy vậy cho đến ngày nay những tư tưởng này vẫn chưa đồng nhất về lý thuyết cũng như cách hành trì. Ngược lại chân lý cứu khổ do Đức Phật nói ra cách nay trên 2500 năm lúc nào cũng đúng, ở đâu cũng đúng, bất cứ ai cũng có thể áp dụng được, không có gì huyền bí cả. Giáo lý Đức Phật là đơn giản, không phức tạp, dễ áp dụng, nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…Nói chung, hành giả phải viễn ly cho hết những dục vọng tham-sân-si, tẩy sạch hết tập khí ngã mạn. Càng viễn ly thì con người càng gần với an lạc thanh tịnh Niết bàn. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì Ngài thấy biết như thế, nếu Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chì cần niệm “Úm ba di bát nhị hồng” rồi phảy cái phất trần thì thế gian làm gì còn đau khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn hụp trong biển trầm luân, nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà mỗi người phải tự mình giải thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau mà giáo lý Đức Phật chính là tấm hải đồ giúp chúng sinh đến được bờ an lạc.

Trong lịch sử của Phật giáo liên quan đến kinh điển cho hậu thế, chúng ta thấy có những lần đại hội như sau:

1)Thời kỳ kết nạp thứ nhất: Đức Phật vừa mới nhập diệt, một số phàm tăng như Subhada đã có những thái độ và lời bất kính:” "Này các bạn! Tại sao các vị thương tiếc nhiều đến Đức Phật làm chi, Ngài đã viên tịch rồi thì chúng ta về sau sống thoải mái hơn lúc trước nhiều, không còn nghe những lời khuyên răn trách cứ nữa: 'Hãy như thế này, hãy như thế kia ...'. Kể từ hôm nay chúng ta muốn làm gì thì làm, không còn bị ràng buộc bởi các giới luật, vì Đức Phật đã viên tịch rồi". Tôn giả Ca Diếp nghe qua rất xót xa và lo ngại cho tiền đồ của Phật giáo. Với tư cách là đệ nhất “Hạnh đầu đà” , Tôn giả Ca Diếp cùng các ngài Kiều Trần Như, Phú Lâu Na, A Na Luật…không muốn đạo pháp mai một về sau nên đứng ra triệu tập một đại hội gồm 500 vị A la hán ở thành Vương Xá ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn với sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A la hán chỉ trừ tôn giả A Nan. Lúc đó, tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường thuyết pháp cho tứ chúng. Mọi người lui tới nghe pháp đông đúc chẳng khác gì lúc Phật còn tại thế. Lúc ấy cũng tại đây, có một Tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ đang ngồi thiền trên lầu, vì không khí ồn ào không thể tham thiền nhập định, bèn quán chiếu xem A Nan đã giác ngộ hay chưa, thì thấy rằng A Nan còn ở địa vị hữu học, liền đến chỗ A Nan, đọc lên bài kệ:
 
"Ngồi dưới cây chỗ vắng,
Tâm hướng đến Niết bàn.
Thiền định, chớ phóng dật,
Nói nhiều có ích chi?"

A Nan nghe vị Tỳ kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc ngài Ca Diếp không cho mình tham dự đại hội kết tập kinh điển, nên đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm tinh tấn siêng năng đi kinh hành, mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được. Đến lúc nửa đêm, thân thể mệt mỏi tột cùng, tôn giả bèn có ý định nằm nghỉ một chút nên liền nghiêng đầu xuống gối. Nhưng khi đầu vừa chấm gối thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc, có giải thoát.

Tôn giả Ca Diếp chọn thành Vương Xá làm nơi kết tập tại vì ở đây có đầy đủ các phương tiện và thực phẩm. Bấy giờ, 500 vị A La Hán liền đến thành Vương Xá. Họ chọn thạch động Satttapanna trên núi Vebhara trong thành Vương Xá (Rajagaha) làm địa điểm kết tập. Sau đó chư Thánh hiền Tăng cùng nhau kéo đến thành Rajagaha và yêu cầu vua A xà Thế giúp đở bằng cách cho nới rộng 18 Tăng đường cho chư vị kết tập có chỗ nghỉ ngơi. Thế rồi, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập luật tạng, và được đại chúng chấp thuận. Ca Diếp bắt đầu hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế tại đâu, người nào sai phạm, phạm về tội gì.... Ư Ba Ly trình bày rằng: Phật chế giới dâm trước nhất, do Tu Đề Na (Sudinna) vi phạm đầu tiên... Một người hỏi, một người đáp và cuối cùng hỏi lại đại chúng, đại chúng cũng hoàn toàn đồng ý với sự trình bày của tôn giả Ưu Ba Ly. Công việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất, gồm đủ cả giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần).

Sau đó, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và cũng được đại chúng đồng ý. Tôn giả A Nan lần lượt kết tập các kinh sau đây: Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng Kỳ Đà, Sa môn quả, Phạm Động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư thiên và nhân loại. Những kinh dài kết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm. Những kinh trung bình kết tập thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra, tập hợp các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng.

2)Thời kỳ kết tập thứ hai: Khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, có nhóm tỳ kheo (phàm tăng) ỏ thành Vajji thường xuyên nhận cúng dường bằng vàng bạc, châu báu từ chư thiện nam tín nữ. Khi đó, có một vị Thánh Tăng tên là Yassa từ Kosambi đến đây chứng kiến được nên liền triệu tập một đại hội để khiển trách các Tỳ kheo đó. Họ tập họp 60 vị A la hán và suy tôn ngài Revata, một bậc thánh tứ quả làu thông Phật ngôn làm chủ tọa. Nhóm Tỳ kheo ở thành Vesali không hành trì 10 điều học do Đức Phật ban hành cho nên các vị Thánh Tăng tuyệt đối cấm các vị Tỳ kheo đó không được hành động sai lầm nữa. Đó là không được giữ muối riêng, không được ăn trái giờ, không được ăn nhiều lần trong một ngày, không được uống rượu, không cất giữ vàng bạc cho cá nhân…

3)Thời kỳ kết tập thứ ba: xảy ra sau khi Đức Phật nhập Niết bàn 218 năm (325 năm trước Tây lịch), Hoàng Đế A Dục triệu tập hơn 1000 vị Đại trưởng lão tại thành Hoa Thị (Pataliputra) dưới quyền chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Tứ Đế Tu (Moggaputta Tissa). Lý do kết tập là vì các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn làm cho Tăng chúng bất hòa và Phật pháp trở nên hổn loạn. Sau 9 tháng làm việc, hội nghị đã hoàn thành công tác kết tập kinh điển và còn chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những hàng Tu sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ luật.

4)Thời kỳ kết tập lần thứ tư: Khoảng 400 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vua Cà Ni Sắc Ca (Kaniska) đã triệu tập 500 vị Hiền Thánh Tăng (A la hán) họp tại thành Ca Thấp Di La để kết tập Kinh điển dưới quyền chủ tọa của hai ngài Hiếp Tôn Giả và Thế Hữu (Vasumitra). Vua Ca Nị Sắc Ca sai thợ đúc đồng đỏ thành lá mỏng để chép lại ba bộ luận:

1)Bộ luận “Ưu Ba Đề Xá” gồm 10 vạn bài tụng dùng để giải thích Kinh tạng.

2)Bộ luận “Tì Nại Da Tì Bà Sa” cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích Luật tạng.

3)Bộ luận “A Tì Đạt Ma Tì Bà Sa” cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích Luận tạng.

Như vậy ba bộ luận gồm 30 vạn bài tụng và có 9,600,000 lời giải thích đầy đủ ba tạng giáo điển. Sau khi hoàn tất, nhà vua sai đem cất vào trong hang đá, xây tháp lên trên để cúng dường, không cho ai mang ra khỏi lãnh thổ. Nếu ai muốn học tập nó thì phải đến đó mà đọc.

Tóm lại, ba kỳ kết tập đầu chưa cần đến sự biên chép, nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là của Đức Phật đã nói ra, hay xét cho những ý nghĩa nào là đúng với chánh pháp. Cho đến kỳ kết tập thứ tư thì mới dùng đến văn tự để biên chép thành sách vở. Trong sự biên chép nầy, chư tăng chia làm hai phái: phái nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái bắc thì chép lại bằng văn Phạn.

Ngoài bốn lần kết tập kinh điển ở trên của Phật giáo Nguyên thủy, dần theo thời gian cũng có thêm vài lần nữa tổ chức tại Miến Điện vào năm 1871 cho lần kết tập lần thứ 5 và năm 1954 cho lần kết tập lần thứ sáu.

Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa chỉ có một lần kết tập kinh điển tại A Phú Hản vào khoảng 500 năm sau khi Phật nhập Niết bàn để kếp tập toàn vẹn lại bốn bộ A Hàm:

1)Trường A Hàm (Dirgha-Agama) (30 kinh) tương đương với Trường Bộ Kinh (Pali).

2)Trung A Hàm (Madhyamagama) gồm 222 kinh, tương đương với Trung Bộ Kinh.

3)Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1361 kinh, tương đương với Tương Ưng Bộ Kinh.

4)Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với Tăng Chi Bộ Kinh.

Sau đó, tất cả các kinh điển khác như Kinh A Di Đà, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Địa Tạng…đều do chư Tổ viết về sau và không có một kỳ kết tập nào để duyệt qua hay chấp thuận, ngay cả không có một đại hội của chư Tăng nào để đồng thuận rằng tất cả những kinh điển đó là do những lời giảng của Đức Phật. Nhắc lại, mỗi lần kếp tập kinh điển thì trong đại hội phải có ít nhất từ 500 cho đến 1000 vị Thánh tăng hay trưởng lão để kiểm nhiệm từng câu, từng bài giảng và thời gian làm việc có thể kéo dài từ một năm cho đến vài năm mới hoàn tất.

LỜI TÁN THÁN ĐỨC PHẬT

Cuối cùng chúng tôi xin trích dẫn lời ca ngợi Đức Phật của học giả H. G. Wells như sau: “Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là con người giản dị, có lòng nhiệt thành, một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống thực, một con người như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng ban cho nhân loại lời khuyên bảo có tánh cách phổ thông, nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lý ấy”.

Đại Đức Sri Radhakrishman thì nói rằng: “Nơi Đức Phật Thích Ca chúng ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người Đông phương, và ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng lên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới, Ngài còn là kết tinh của người thiện trí. Đứng về phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử”.

Thêm nữa, chính thủ tướng Nehru tuyên bố rằng: “Nếu bất kỳ vấn đề nào phải được xem xét, thì vấn đề ấy phải được xem xét một cách hài hòa an lạc và dân chủ như phương pháp mà Đức Phật đã dạy”. Và ông nói thêm:”Có lẽ không thời điểm nào trong lịch sử của nhân loại mà thông điệp về hòa bình của Ngài lại cần thiết hơn cho nhân loại đang khổ đau và điên cuồng như thế giới hiện nay”.

Ngay cả học giả Hồi giáo Abdul Atahiya nói rằng:” Đức Phật không phải là tài sản riêng cho giới Phật tử. Ngài là tài sản của toàn thể nhân loại. Giáo pháp của Ngài dành cho tất cả mọi người. Mọi tôn giáo, được ra đời sau Đức Phật, đã mượn nhiều ý tưởng hay đẹp từ Đức Phật”.

Nhà đại văn hào Aldous Huxley nói rằng:”Duy nhất trong tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, Phật giáo tiến hành trên con đường của mình mà không gây sát hại, hành hạ, cấm đoán, kiểm duyệt hoặc tìm tòi soi bói”.

Chính Gandhi tán thán Đức Phật:”Bằng đức hy sinh rộng lớn của Ngài, và bằng phẩm hạnh thanh tịnh vô nhiễm của đời Ngài, Ngài đã ghi tạc lên trên Ấn Độ giáo những dấu vết không bao giờ phai mờ, và đối với bậc thầy vĩ đại ấy, Ấn Độ giáo còn mang một mối nợ phải được tri ân muôn đời”.

Ngay cả nhà bác học Albert Einstein cũng nói:”Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của hoàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học.Tôn giáo ấy phải bao quát cả hai phương diện tự nhiên và siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo cũng không cần từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học”.

Một triết gia người Úc là Schopenhauer phát biểu rằng:”Phật giáo là một tôn giáo cao cả nhất và là một trong những tia sáng vĩ đại nhất không chỉ riêng cho Châu Á mà cho khắp toàn cầu”.

Và sau đây chúng ta hãy nghe tiến sĩ Edward Conze nói về Phật giáo:”Tất cả mọi người sống ở Á Châu đều có thể hãnh diện về một tôn giáo không những có trước tôn giáo Tây phương cả hơn 500 năm mà còn có thể bành trướng và duy trì mà không cần dùng đến bạo lực và không hề bị oen ố bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo và thánh chiến”.

Sau cùng Tiến sĩ Oldenburg, một học giả người Đức phát biểu rằng:”Không phải chính Đức Phật đã giải thoát con người, nhưng Ngài dạy họ tự giải thoát cho chính mình bởi sự thức tỉnh của những lời dạy phát sinh từ ánh sáng trí tuệ của chính họ”.

Nguồn: Thuvienhoasen.org