272 lượt xem

NGUYỄN CƯ TRINH

Lịch sử ghi nhận, Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) chẳng những có tài văn chương mà còn giỏi dùng binh, mưu lược, lại liêm chính, khí phách ngang tàng. Với chính sách “tàm thực” vô cùng khéo léo, vị công thần này có công lớn trong việc mở cõi xứ Tây Nam Bộ, hoàn tất chính sách mở rộng lãnh thổ của chúa Nguyễn về phương Nam.

Độc đáo nơi lưu giữ 85 đạo sắc phong thần
Miếu Công Thần thờ Nguyễn Cư Trinh ở tỉnh Vĩnh Long. (Nguồn: sưu tầm)

Vừa tài văn chương lại giỏi cầm quân

Nguyễn Cư Trinh tên thật là Nguyễn Đăng Nghi, hiệu Đạm Am. Ông người xã An Hòa, huyện Hương Trà, nay là phường An Hòa, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tổ tiên ông vốn gốc Thanh Hóa (có tài liệu cho là Hà Tĩnh), cụ tổ xưa kia là Trịnh Cam, làm quan thời nhà Lê đến Binh bộ Thượng thư.

Nguyễn Cư Trinh khi mới 11 tuổi đã có tài nghiên bút, hay văn, giỏi thơ phú. Năm ông 18 tuổi, ông được sung làm Huấn đạo. Năm 24 tuổi, ông thi đỗ Hương cống, được cử làm Tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị). Một năm sau ông được thăng văn chức (chức đại thần bên văn). Năm 1750, ông được phong làm Tuần phủ Quảng Ngãi tước Nghi Biểu hầu.

Tài văn thơ của ông được người đời nể phục bởi nhiều tác phẩm giá trị. Lê Quý Đôn đã nhận xét rằng sự nghiệp văn học của Nguyễn Cư Trinh gắn với tâm sự và chí khí kinh bang tế thế. Một số bài thơ có khí vị lối thơ biên tái, vừa phấn phát sôi nổi, hùng tráng; vừa lắng động, trầm tĩnh, bi hoài. Một số bài khác thì lại phản ánh tâm sự cô đơn, phiền muộn của một người đầy lòng ưu ái,… thấu hiểu nỗi cơ cực, đau khổ của dân, muốn “bàn nói mưu ngay, lẽ phải, nhưng đều không được theo”

Nguyễn Cư Trinh: Công thần hoàn thành mở cõi đất Tây Nam Bộ
Lễ kỷ niệm 300 năm ngày sinh Nguyễn Cư Trinh được tổ chức tại mộ ông ở tỉnh Thừa Thiên Huế.(Nguồn: sưu tầm)

 

Nguyễn Cư Trinh sau còn là một danh tướng có tài cầm quân, một nhà chính trị khôn khéo. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), tộc người thiểu số ở Đá Vách (Quảng Ngãi) nổi dậy chống đối, quấy phá người Việt thời gian dài nhưng chưa dẹp được. Năm 1750, chúa Nguyễn phong Nguyễn Cư Trinh làm Tuần phủ những mong tài năng của ông có thể dẹp loạn tặc.

Nhiệm vụ này không dễ, bởi tộc người thiểu số hung tợn dù bị quan binh nhiều lần đánh dẹp nhưng vẫn nổi lên. Một phần là bởi vùng núi này thế cao chót vót, vách đá hiểm trở, việc tiến đánh vô cùng khó khăn, binh sĩ e sợ núi rừng hiểm dữ, sơn lam chướng khí, trong khi tộc người thiểu số vạm vỡ, khỏe lẹ.

Để khích lệ, cổ vũ tinh thần binh sĩ và nhân dân, ông sáng tác bài vè Sãi vãi rồi cho phổ biến rộng rãi. Khi lòng quân hăng hái ông liền cho tiến quân đến tận hang ổ, nhóm loạn tặc sợ hãi trốn sạch. Sau đó ông không rút quân mà dựng trại, khẩn hoang vỡ đất, vừa tăng gia sản xuất vừa canh phòng các nơi xung yếu, làm vẻ như sẽ đóng quân lâu dài.

Nhóm phản loạn thấy vậy sợ hãi đành kéo nhau ra hàng. Nguyễn Cư Trinh lúc này dùng đạo lý đối đãi, vỗ về và chỉ hướng làm ăn. Tộc người này từ đó quy thuận, vấn nạn được giải quyết triệt để mà không hao binh tổn tướng khiến ai nấy nể phục. Tài năng của ông càng thể hiện rõ nét khi phụng lệnh vào Nam, hoàn thành công nghiệp mở nước, an dân cho chúa Nguyễn.

 

Hoàn thành công nghiệp mở cõi

Những năm 1750, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thường hiếp đáp người Côn Man (người Chăm định cư trên đất Chân Lạp). Năm 1753, chúa sai Cai đội Thiện Chính làm thống suất, Nguyễn Cư Trinh làm tham mưu, điều khiển tướng sĩ năm dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ đi đánh Nặc Nguyên.

Sau khi ổn định quân ngũ ở Gia Định, năm 1754, quân binh chia hai đường theo hướng Tây đánh Chân Lạp. Quân Việt tiến đến đâu chiến thắng tới đó và giải thoát cho người Côn Man. Người Côn Man vốn dĩ căm hận triều đình Chân Lạp nên đã đứng về phía quân Việt. Nguyễn Cư Trinh lúc này dùng kế lấy người Côn Man đánh Chân Lạp, cho chiêu dụ những người Côn Man làm để tiếp ứng.

Năm 1756, Trương Phước Du cùng Nguyễn Cư Trinh tiến đánh Chân Lạp. Nặc Nguyên thua chạy sang Hà Tiên, nhờ Mạc Thiên Tứ xin hộ với chúa Nguyễn, hiến hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) để xin chuộc tội. Nhưng chúa Nguyễn không cho.

Nguyễn Cư Trinh đã trình lên chúa Nguyễn bản tấu: “… Muốn mở mang đất đai cũng nên lấy hai phủ này trước để củng cố mặt sau của hai dinh (Trấn Biên và Phiên Trấn). Nếu bỏ gần, mưu xa, e rằng hình thế cách trở, binh dân không liên tiếp, lấy được tuy dễ mà giữ thì thật khó. Trước kia mở rộng phủ Gia Định, tất phải mở trước đất Hưng Phước, rồi đến đất Đồng Nai, khiến quân dân đông đủ, rồi sau mở đến Sài Gòn. Đó là cái kế tằm ăn lá dâu…”.

Chúa Nguyễn chấp thuận thu lấy đất hai phủ ấy cho sáp nhập vào châu Định Viễn. Nguyễn Cư Trinh khí đó xin cho dân Côn Man định cư ở hai phủ này, cùng các cộng đồng người khác, để khai thác và bảo vệ vùng đất mới này.

Năm 1757, Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận xin hiến đất Ba Thắc (gồm Sóc Trăng, Bạc Liêu) và Trà Vang (gồm Trà Vinh, Bến Tre) để xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp. Chúa chấp thuận nhưng sau đó Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh cướp ngôi. Cháu Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy ra Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp.

Chúa thuận cho và sai Trương Phước Du cùng Mạc Thiên Tứ đánh dẹp Nặc Hinh đưa Nặc Tôn về nước làm vua. Để tạ ơn, Nặc Tôn cắt đất Tầm Phong Long (tức vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu về phía Bắc) dâng chúa Nguyễn. Đây là vùng đất cuối cùng được nhập vào lãnh thổ nước ta, nối liền Gia Định và Hà Tiên.

Nguyễn Cư Trinh cho đặt nền hành chính cai quản vùng đất rộng lớn này, dời dinh Long Hồ đến xứ Tầm Bào. Lại đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang. Dùng người Côn Man thủ đất Tây Ninh và Hồng Ngự. Để tạo điều kiện cho lưu dân người Việt đến sinh sống, khai hoang, ông đã thực hiện việc tổ chức an sinh vùng đất mới này.

Trong 11 năm trấn giữ biên cương phía Nam, ngoài công lao mở đất an dân, ông còn có nhiều sáng kiến nhằm phát triển Nam bộ về mọi mặt. Nam bộ bấy giờ sông rạch chằng chịt, thuyền ghe như mắc cửi và hay quẹt húc nhau. Để khắc phục tình trạng này ông nghĩ ra quy tắc đi lại cho ghe thuyền cũng như căn cứ xác định đúng sai khi có va quẹt. Sáng kiến của ông giảm thiểu được tai nạn sông nước, giao thông thủy dần vào nền nếp.

Vấn nạn khác là cướp sông hoành hành, chúng thường cải trang, dùng thuyền đi trà trộn, cướp bóc nhưng không dẹp hẳn được. Để giúp dân thuyền buôn, ông lệnh cho các hạt, phàm thuyền lớn nhỏ, đều phải khắc tên họ quê quán chủ thuyền ở đầu, do quan sở tại làm sổ thuyền để tiện tra xét. Bọn trộm cắp từ đó không còn trà trộn cướp phá được nữa.

Nguyễn Cư Trinh nổi tiếng là người thương dân, trong tất cả mọi việc, từ việc doanh điền đến dẹp loạn biên cương, ông đều lấy việc thu phục nhân tâm làm đầu. Vì yêu quý dân mà ông từng tấu lên chúa Nguyễn: “Dân là gốc của nước, gốc không bền thì nước không yên, nếu ngày thường không gia ân để buộc lòng dân thì khi có việc xảy ra, còn mong chờ vào đâu…”.

Ông cũng nêu rõ những việc hại đến sức dân, ví như là việc cấp lương cho lính, nuôi voi, nộp tiền án. Ông lại khuyên chúa bốn điều tệ hại cần bỏ để an dân, như việc phiền nhiễu của quan phủ huyện khi thu thuế trong dân; thực trạng bòn rút tiền của dân qua việc bắt, xét các án; là tình trạng lậu đinh để trốn sưu thuế; bắt dân cung tiến sản vật…

Ông cũng thể hiện mình là một vị quan liêm chính, thẳng thắn ngang tàng, không sợ uy vũ. Chuyện là năm 1765 ông được triệu về Kinh thăng Lại bộ kiêm Tào vận sứ, khi đó quyền thần Trương Phúc Loan ỷ thế lộng hành, ông không những không sợ mà còn mắng y. Phúc Loan dù quyền lực tột đỉnh nhưng vẫn e dè trước vị công thần vốn nhiều công trạng và được muôn người kính nể.

Năm 1767, ông bị bệnh và mất, được truy tặng Tá lý Công thần, Vinh lộc Đại phu, thụy Văn Định. Đến đời Minh Mạng, ông được truy tặng là Khai quốc Công thần, Hiệp biên Đại học sĩ, đổi tên thụy thành Văn Cách, truy phong tước Tân Minh hầu, cho tòng tự ở Thái miếu (Huế). Khu mộ Nguyễn Cư Trinh ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế đã được xếp hạng di tích quốc gia từ năm 1998.

Gia Nguyễn

Công thần mở đất Tây Nam Bộ dám chỉ mặt mắng kẻ chuyên quyền

Tổ tiên Nguyễn Cư Trinh (1716-1767), trong “Đất và người Nam Bộ”, Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh cho hay vốn người Thanh Hóa. Cái đất ấy, là nơi “đất của vua, nhà của chúa”, văn thần, võ tướng cũng nhiều không ít. Và Nguyễn Cư Trinh thì xứng đáng là một công thần thời Nguyễn chúa. 

Vốn Cư Trinh không phải họ Nguyễn, cái nguyên nhân đổi họ, xuất phát từ đời cha là Đăng Đệ, và đó là chính tích tốt đẹp. Nguyên thủy, Đăng Đệ họ Trịnh, thuộc dòng dõi Binh bộ Thượng thư Trịnh Cam đời Lê.

Khi Đăng Đệ làm quan đời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu, như Đại Nam chính biên liệt truyện cho hay, bởi “tấu đối tường tận, rõ ràng, bàn bạc rộng rãi, Chúa lấy làm lạ và yêu lắm, cho họ là Nguyễn”. Từ ấy mà dòng con cháu của Đăng Đệ, chuyển sang họ Nguyễn. 

Nổi danh từ thuở đầu xanh

Anh em Nguyễn Đăng Cẩn, Nguyễn Cư Trinh là hai người con ưu tú kiệt xuất của Nguyễn Đăng Đệ. Người anh Nguyễn Đăng Cẩn tính phóng khoáng, giỏi võ nghệ, từng là kiện tướng thời chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát. Trong khi đó, chính tích của Nguyễn Cư Trinh, người con út của Đăng Đệ, lại trải khắp nơi triều chính cũng khi cầm quân. 

Theo như Văn học miền Nam (thời Nam Bắc phân tranh) cho biết, gốc Cư Trinh ở đất Thanh (ấy thế, trong Phủ biên tạp lục, sau có thêm Văn học Nam Hà (Văn học Đường Trong thời phân tranh) thì cho rằng dòng dõi ông không phải ở đất Thanh, mà ở Thiên Lộc, Hà Tĩnh), còn quê của ông, thuộc xã An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Nay đất ấy, thuộc phường An Hòa, thành phố Huế. 

Sử nhà Nguyễn có ghi, Nguyễn Cư Trinh, tên tự là Nghi, hiệu Đạm Am, được tiếng là “thông minh sớm hơn người”. Chứng cứ cho lời khen ấy, là khi mới 11 tuổi, Trinh đã có tài nghiên bút, hay văn, giỏi thơ phú, văn chương làm rất có phép tắc, niêm luật chứ không tùy tiện, sai khác như bạn bè đồng niên.

Tài năng của Trinh nổi tiếng ngang với anh họ là Nguyễn Đăng Thịnh (Thịnh là con của Nguyễn Đăng Trị, anh trai Nguyễn Đăng Đệ. 14 tuổi Đăng Thịnh đã thi đỗ, khi được bổ làm lễ sinh thì từ chối không nhận. Sau này nổi tiếng về văn chương, các lệnh đời ấy đa phần do ông viết và ông còn là thầy dạy cho Nguyễn Phúc Khoát).   

Năm Canh Thân (1740), bấy giờ Nguyễn Cư Trinh 24 tuổi, thi đỗ Hương cống (tương đương Cử nhân), được chúa cử làm Tri phủ Triệu Phong. Bởi làm tốt, ông được thăng văn chức (chức đại thần bên văn).

Làm quan dù trẻ tuổi, nhưng Nguyễn Cư Trinh đã có được tiếng tốt, như Liệt truyện ghi là “gặp việc dám nói, có phong cách người bề tôi biết can ngăn”... “là người khảng khái, có mưu lược, liệu sự biết phán đoán thường hợp cơ nghi”.

Công thần mở đất Tây Nam Bộ dám chỉ mặt mắng kẻ chuyên quyền
Một trường mang tên danh nhân Nguyễn Cư Trinh (Nguồn: sưu tầm)

Tài văn chức

Tài năng, cơ mưu hơn người, nhưng không phải lúc nào lời nói phải cũng được chúa nghe theo. Thế nên mới có chuyện thời chúa Nguyễn Phúc Khoát ở ngôi, theo Phủ biên tạp lục thì Nguyễn Cư Trinh “bàn nói không gì là không mưu ngay lẽ phải, nhưng đều không được theo”.

Nhưng cũng thời Võ vương, ông được chúa trọng dụng, như lời ghi trong Liệt truyện “điển chương pháp độ đều do Đăng Thịnh kiến lập rõ ràng, còn từ lệnh thì ra tay từ Cư Trinh”. Như vậy là pháp độ, từ lệnh đều do tay hai anh em họ dòng Nguyễn Đăng làm cả. 

Khi chúa Trịnh định làm kế “mượn đường diệt Quắc”, viết thư đưa cho chúa Nguyễn, bày tỏ việc mượn đường đi Trấn Ninh để diệt tôn thất nhà Lê bấy giờ là Lê Duy Mật, Nguyễn Cư Trinh thay mặt chúa Nguyễn viết thư từ chối. Chúa Trịnh biết Đàng Trong đã cảnh giác phòng bị, bèn thôi. 

Võ vương Nguyễn Phúc Khoát về trời, Nguyễn Phúc Thuần lên giữ ngôi chúa năm Ất Dậu (1765), đây cũng là lúc Trương Phúc Loan bắt đầu nổi lên tác oai, tác quái, chuyên quyền, bạo ngược không biết sợ ai.

Lúc ấy, Nguyễn Cư Trinh đương làm Lại bộ kiêm tào vận sứ, thấy tên quyền thần một tay muốn che phủ bầu trời, ông không những không sợ, mà còn mắng thẳng vào mặt kẻ loạn thần.

Việc này, chứng cứ còn được Liệt truyện ghi lại, khi Loan hay triệu các quan đến nhà riêng bàn việc: “Cư Trinh nghiêm nét mặt nói: “Bàn việc ở công triều chế độ đã định từ lâu. Phúc Loan sao dám vô lễ như thế! Chực chuyên quyền à? Loạn thiên hạ, tất là người này”.

Các quan nghe ông nói thì đều không dám theo lời Loan, còn Phúc Loan căm giận ông lắm, nhưng “vẫn kính sợ không dám làm hại”. Quả nhiên sau này, lời ông nghiệm thật. 

Cái tài khi làm quan văn của ông, được nhận định là “có tài lược, khéo quyết đoán. Những việc ông tâu bày phần nhiều là lời trung, bàn phải”. Xét những việc làm trong đời làm quan của ông, rõ là lời khen trên chẳng có ngoa dụ chút nào.

Thạch Bích tà dương - Báo Người lao động
Núi Thạch Bích (Nguồn: sưu tầm)

Uy cầm quân

Có tiếng là vị quan giỏi văn chương, tấu sớ, nhưng tài năng của quan họ Nguyễn không chỉ phủ bóng nơi giấy tờ mà thôi. Khi được chúa giao cho trách nhiệm cầm quân đánh giặc, Nguyễn Cư Trinh cũng tỏ rõ tài lược của mình. Bằng cớ được sử cũ ghi lại nhiều lắm, cứ xem trong Đại Việt sử ký tục biên, Đại Nam thực lục… thì rõ như ban ngày vậy. 

Năm Canh Ngọ (1750), ở đất Quảng Nghĩa, có bọn mọi Đá Vách (hay Man Thạch Bích) nổi lên làm loạn, quấy nhiễu dân lành, chúa Nguyễn lấy đó làm lo lắng lắm. Mọi Đá Vách như miêu tả trong Văn học Nam Hà là nhóm người thiểu số, dữ tợn, thường hại dân Việt “Đến đâu là tảo tận, bắt đặng ắt giết tươi. Đã vào làng cướp của hại người, lại xuống nội đuổi trâu bắt ngựa”.

Chúa đã cử nhiều quan tướng đi dẹp rồi, mà cứ dẹp xong chúng lại nổi lên không lúc nào yên. Chúa Nguyễn Phúc Khoát thấy Nguyễn Cư Trinh tài năng, lại có mưu lược, bèn cử ông làm Tuần phủ Quảng Nghĩa những mong dẹp được chúng.

Về Đá Vách, những tưởng cũng nên chú ý qua cái địa thế hiểm trở của nó từ ghi chép trong Đại Nam nhất thống chí: “Thế núi chót vót, vách đá rất hiểm trở, cỏ mọc rậm rạp, chưa từng có tiều phu đến chặt củi. Buổi sớm khói mây ngưng sắc tía, suối hang ngậm màu son. Lúc mặt trời chiếu xuống, núi đá đều sáng láng như ánh sao đêm”.

Theo ghi chép trong Văn học miền Nam (thời Nam Bắc phân tranh), trong phần ghi về tiểu sử của ông cho biết, khi Nguyễn Cư Trinh đến đất này, “đem tài văn thơ ra ứng dụng mà vô hiệu quả.

Ông bàn việc tiến đánh thì ai nấy đều can vì sợ đất hiểm, khí độc, tụi mọi vạm vỡ, mạnh mẽ, lanh lẹ. Ông bèn soạn truyện “Sãi Vãi” để vận động tâm lý quan quân và dân chúng trước khi cử binh. Sau đó ông tiến quân, bọn mọi bỏ sào huyệt lẩn trốn hết”.

Đánh được rồi, ông lại chẳng chịu rút, chiếm đóng luôn sào huyệt của mọi Đá Vách. Lại dựng trại, mở đồn điền ngay nơi ấy, tăng cường canh phòng cẩn mật, giả đò sẽ ở đấy lâu dài. Bọn phản loạn kia thấy thế thì hoảng sợ, bèn kéo nhau lũ lượt ra hàng.

Biết chúng đã có lòng thành thật, ông dùng lời hơn lẽ thiệt mà phủ dụ, vỗ về cho yên tâm làm ăn, sinh sống, không nổi loạn chống đối triều đình nữa. Thế là mọi Đá Vách được dẹp tận gốc. 

Bởi có tài làm quan văn, dùng đầu óc mà tính toán muôn việc, nên khi cầm quân ra trận, thì cái tài nơi màn trướng lại càng thể hiện rõ hơn. Lắm khi, chẳng cần mất mũi tên, ngọn lao hay hao tổn sức quân, mà ông vẫn thu được thắng lợi lớn. Cứ xem năm Quý Dậu (1753), có thể lấy đó làm bằng.

Năm ấy, Nguyễn Cư Trinh được sung chức tham mưu, điều khiển quân năm dinh, Phủ biên tạp lục ghi: “Có cơ mưu trí lược, hay quyết đoán, trù hoạch rất rành rọt, bèn thu được ba vạn người Côn Man ở Thuận Thành, bắt vua Cao Miên là Ông Nguyên hàng phục, lập Ông Tôn lên thay, Gia Định Hà Tiên lẫy lừng danh vọng”...

 Tổng hợp SGT Group