Các Giáo Chủ Đạo Hồi sau Mohammed
Nguồn: Sưu tập
1. Các Giáo Chủ Đạo Hồi sau Mohammed
Đạo Hồi bắt đầu từ thế kỷ thứ 7, là một tôn giáo lớn với số tín đồ chiếm 1/7 dân số trên thế giới, sống trải dài từ châu Phi qua miền Trung Đông tới vùng Đông Nam châu Á và các hòn đảo Indonesia. Đạo Hồi không chỉ là một tôn giáo mà còn là một cách sống, đã đòi hỏi các tín đồ không những phải tuân theo các nghi thức thờ phượng mà cả các tiêu chuẩn văn hóa và xã hội. Các lời giáo huấn và các đòi hỏi về tôn giáo là các thử thách đối với mọi người nếu xét theo các yếu tố sắc dân, ngôn ngữ và địa phương.
Các giáo điều của đạo Hồi rất trực tiếp và dễ hiểu. Danh từ “islam” có nghĩa là “phục tùng” bởi vì niềm tin Hồi giáo đòi hỏi cách tuyệt đối phục tùng theo Đấng Allah, tức là vị Thượng Đế Sáng Tạo Toàn Năng. Người theo đạo Hồi tin tưởng mãnh liệt rằng “không có vị linh thiêng nào khác ngoài Thượng Đế Allah” và mọi người sẽ bị xét xử vào lúc mãn đời, những người có công sẽ được ân sủng một đời sống vĩnh viễn trên một thiên đường tràn đầy vui thú, còn các kẻ ác sẽ lãnh chịu các hình phạt như lửa nóng và tra khảo.
Đạo Hồi là một tôn giáo không dùng tới các bí tích (sacraments) và các tu sĩ, điểm này khiến cho đạo Hồi tương tự như đạo Do Thái (Judaism) bởi vì tín đồ đạo Hồi chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đấng Allah mà không qua người trung gian. Giới giáo sĩ đạo Hồi chỉ là các học giả có nhiệm vụ bình giảng các vấn đề niềm tin và giáo luật.
Đạo Hồi đã phát triển theo nhiều hướng, đã gây được ảnh hưởng lớn lao trong lịch sử của nhiều quốc gia tại châu Phi, miền Đông Nam Á và đặc biệt là miền Trung Đông. Đạo Hồi là một tôn giáo khác với đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, không những do các quan niệm về Thượng Đế, về các nhà tiên tri mà còn cả về sự kết hợp chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội với tôn giáo, khiến cho đạo Hồi có những nét đặc thù, rất thích hợp với các xứ Ả Rập. Tín đồ đạo Hồi tin tưởng rằng chỉ có 6 nhà tiên tri là Adam, Noah, Abraham, Moses, Jesus và Mohammed, vị tiên tri cuối cùng. Các vị sứ đồ này đã mang đến cho con người Lời của Thượng Đế và các lời dạy của Mohammed sẽ dẫn dắt con người tới Ngày Phán Xét sau này.
Nhà tiên tri Mohammed chào đời vào khoảng năm 570 sau Công Nguyên và theo nhà tiểu sử học đầu tiên viết về Mohammed là Ibn Ishaq, thì vào năm 610 khi ở tuổi 40 và tỉnh giấc sau một giấc ngủ trên núi Hira, ông Mohammed đã nghe thấy tiếng nói từ trên Trời cao của một thiên thần có hình dạng người, bảo như sau: “Ô, Mohammed, ông là tông đồ của Thượng Đế và ta là Gabriel”. Từ năm 613, nhà tiên tri Mohammed bắt đầu đi giảng đạo tại Mecca và các lời rao giảng của Mohammed được chép thành cuốn Kinh Koran. Ngoài Mecca, Medina là thành phố thứ hai được coi là linh thiêng của đạo Hồi.
Sau khi giáo chủ Mohammed qua đời vào năm 632, đạo Hồi đã trải qua các thời kỳ thay đổi và chinh phục từ đầu thế kỷ thứ 7 tới giữa thế kỷ 18, từ một tôn giáo của một cộng đồng nhỏ trở thành một đế quốc chính trị rộng lớn, nhiều quyền lực và mặc dù tốc độ biến chuyển rất nhanh chóng, bên trong đạo Hồi vẫn xẩy ra các vụ nổi loạn, nội chiến. Các nhân vật kế nghiệp giáo chủ Mohammed được gọi là “caliph” hay giáo chủ đạo Hồi, là vị lãnh đạo tối cao về chính trị và tôn giáo. Ba trong 4 vị giáo chủ này đã bị ám sát và 2 triều đại Hồi giáo đã thay đổi thủ đô từ Medina qua Damascus rồi Baghdad và trong triều đại thứ hai Abbasid, đạo Hồi đã lên tới trình độ cực thịnh với lực lượng quân sự mạnh nhất, với thủ đô đẹp nhất và lớn lao nhất trên thế giới.
Giáo chủ Mohammed khi qua đời đã không để lại cách chọn lựa hay không chỉ định người kế nghiệp. Vẫn biết rằng không ai có thể thay thế nhà Tiên Tri nhưng một nhà lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo được coi như rất cần thiết. Một phương pháp đơn giản là các bậc cao tuổi trong cộng đồng chọn lựa ra người nào xứng đáng nhất để lãnh đạo tôn giáo. Việc chọn lựa này được căn cứ vào sự liên hệ do huyết thống hay do sự thân cận với nhà Tiên Tri, do đã từng làm quen với các khuôn mẫu của nhà Tiên Tri khi điều hành chính quyền, chính trị, tôn giáo và quân sự. Các quyết định quan trọng của những vị giáo chủ này còn được dựa vào các lời cố vấn của các bạn thân, đáng tin cẩn, tức là những người tiếp xúc với nhiều tín đồ, trực tiếp hướng dẫn các tín đồ trong cách hành lễ, cầu nguyện và có uy quyền trực tiếp về tinh thần, chính trị và quân sự.
1/ Giáo Chủ Abu Bakr.
Giáo chủ đạo Hồi đầu tiên sau Mohammed là ông Abu Bakr. Ông này đã từng là một người bạn và cố vấn của nhà tiên tri, lại là cha của A’isha, người vợ nhỏ tuổi và được cưng yêu nhất của Mohammed lúc sắp qua đời. Ông Abu Bakr khi đó vào khoảng 60 tuổi, dáng người lom khom, có bộ râu nhuộm đỏ theo phong tục Hồi giáo, là người ăn mặc giản dị nhưng được mọi người kính nể nhờ bản tính ân cần, khiêm tốn và rất hiểu biết. Khi làm giáo chủ, ông mang danh hiệu Khalifat Rasul Allah, tức là người kế tục của Sứ Đồ của Thượng Đế.
Khi bắt đầu giữ nhiệm vụ kế tiếp nhà Tiên Tri, ông Abu Bakr đã gặp ngay khó khăn vì vài bộ lạc Ả Rập muốn tách ra khỏi khối Hồi giáo. Trước kia, họ đã từng trung thành với ông Mohammed và đóng thuế vì uy tín của nhà Tiên Tri là người đã mang lại niềm tin, đã kết hợp các sắc dân du mục bedouin và các nhóm dân khác nhưng đến nay, đã không còn sự ràng buộc nữa và họ đã từ chối nạp tiền cho các người đi thu thuế. Sự chống đối lan rộng và trở nên nghiêm trọng khiến cho các nhà lãnh đạo Hồi giáo tin rằng khó mà hàn gắn nổi những rạn nứt này, dù cho phải dùng tới sức mạnh quân sự. Nhưng mặc dù bản tính dịu dàng, ông Abu Bakr đã không chấp nhận cách ly khai này bằng cách gửi các đoàn quân chinh phục và trong vòng 2 năm, các kẻ bỏ đạo và các nhà tiên tri giả như Musailima đã phải quy hàng.
Sau đó giáo chủ Abu Bakr còn muốn mang Lời của Thượng Đế tới các dân tộc khác sống tại phía bắc và đạo quân Hồi giáo bắt đầu đánh chiếm các lãnh thổ của 2 đế quốc Byzantine và Ba Tư. Kinh Koran và lưỡi kiếm đã chinh phục dần dần các miền đất lạ, vào thời kỳ này tôn giáo là một lý do, là một động cơ thúc đẩy các cuộc chinh phục nhưng còn một yếu tố khác là cảnh nghèo nàn của xứ Ả Rập đang thiếu thốn các tài nguyên. Dân chúng miền này thường xuyên không có đủ thực phẩm và họ đã chú ý tới miền đất xanh tươi hình cánh cung trải dài từ thành phố Palestine qua phía bắc xứ Syria, dẫn tới thung lũng của hai con sông Euphrates và Tigris rồi đến vịnh Ba Tư.
Các bộ lạc Ả Rập nằm nằm rải rác gần miền cánh cung này trong nhiều thập niên đã là các xứ sở đệm giữa hai đế quốc thù nghịch là Byzantine và Ba Tư (Persia). Hai đế quốc này thường dùng những người Ả Rập làm lính đánh thuê vì thế lớp người này đã trông cậy vào người Hồi giáo như những kẻ giải phóng họ.
Yếu tố thứ hai giúp cho người Hồi giáo là sự thù nghịch giữa hai đế quốc kể trên. Từ đầu thế kỷ thứ 7, đế quốc Byzantine trị vì bởi vua Heraclius tại kinh đô Constantinople với dân chúng theo đạo Thiên Chúa, đã tràn qua xâm lăng vùng Trung Đông, chiếm thành phố Jerusalem và rồi lấn qua chiếm xứ Ai Cập là những nơi chịu ảnh hưởng cai trị do vua Yezdegerd trị vì tại Ctesiphon, thuộc xứ Ba Tư của những người theo đạo thờ lửa Zoroastrianism.
Sự thành công của lực lượng Hồi giáo không chỉ nhờ vào sự tương tranh và suy tàn của hai đế quốc kể trên mà còn nhờ vào tài năng của các viên tướng tài ba theo đạo Hồi. Những nhà quân sự này đã chuyển dần các vụ cướp bóc, hôi của, thành các chiến dịch chinh phục những miền đất mới. Một trong các vị tướng có tài là Khalid ibn al-Walid, người lúc ban đầu ở trong lực lượng của thành phố Mecca chống lại nhà Tiên Tri, nhưng sau đã cải sang đạo Hồi và chiến đấu cho Hồi giáo. Trong một trận đánh tại Mu’ta gần thành phố Palestine, vị chỉ huy Hồi giáo bị giết chết và Walid đã lên nắm quyền, điều khiển hữu hiệu 3,000 quân khiến cho quân địch phải thối lui. Do tài lãnh đạo và lòng cam đảm, tướng Walid đã được nhà Tiên Trị gọi là “Lưỡi Gươm của Hồi giáo”.
Về sau Khalid trở nên viên tướng chính của giáo chủ Abu Bakr, đã cùng với các viên chỉ huy khác tổ chức các bộ lạc Ả Rập trở thành một lực lượng quân sự lớn lao nhất thời bấy giờ. Các vị tướng lãnh tài giỏi này đã là những nhà chiến lược của sa mạc, giống như những người Vikings biết lợi dụng biển cả, nhờ đó họ xuất sắc hơn cả các người La Mã nổi danh vì các đạo quân viễn chinh. Sa mạc đối với người Ả Rập là một hậu phương rộng lớn, che chở họ khi rút lui cũng như lúc tấn công. Người Ả Rập đã khai thác hai yếu tố quân sự, đó là tính bất ngờ và tốc độ phục kích. Họ hiểu rõ chiến thuật dùng ngựa và lạc đà hơn tất cả các dân tộc khác trên thế giới, họ lại có tài về cách bắn cung, đánh kiếm và rất gan dạ trên chiến trường nhờ lòng tin tưởng mãnh liệt vào tôn giáo. Khi xung trận, các lính bộ binh bắn ra các trận mưa tên rồi tiếp theo là các toán kỵ binh Ả Rập lăn xả vào địch quân với gươm sắc và giáo nhọn khiến cho mọi hàng ngũ quân địch phải bị tan rã.
Các đội quân Ả Rập đã tiến về ba hướng: phía bắc tiến vào Iraq và Palestine, phía đông đánh phá Iraq và Ba Tư là cửa ngõ của miền Trung Á, còn phía tây xâm chiếm Ai Cập với vùng Bắc Phi. Khi tướng Khalid đang ở tại mặt trận đối đầu với lực lượng Ba Tư, ông ta được lệnh của Abu Bakr phải điều khiển một đoàn quân tăng cường cho mặt trận ở Syria, Khalid đã thực hiện một cuộc chuyển quân thần tốc, vượt 200 dặm qua sa mạc không có nước uống và theo chuyện kể, ông ta đã cho lạc đà uống no nước rồi mổ bụng lạc đà, lấy nước cho ngựa chiến uống. Đoàn quân tiếp viện này đã kịp thời tới Ajnadain nằm giữa Jerusalem và Gaza, nhờ thế quân đội Hồi giáo đã đánh thắng quân lính của vua Heraclius và tiến vào thành Damascus sau 6 tháng vây thành. Đó là vào năm 635. Trước khi tiến quân vào thành phố đầu hàng, tướng Khalid cho công bố một bản văn mà từ đó về sau, đã trở thành một tiêu chuẩn cho các cuộc chinh phục của Hồi giáo: “Với danh nghĩa của Allah là Đấng Từ Bi, Đấng Cứu Rỗi, sau đây là những gì Khalid ibn al-Walid sẽ ban cho các cư dân của thành Damascus: Tôi hứa sẽ cung cấp cho tất cả sự an toàn về mạng sống, tài sản và nhà thờ. Kinh thành sẽ không bị phá hủy và người Hồi giáo sẽ không ở trong nhà của dân chúng. Vì chúng tôi đã cho tất cả lời thỏa ước với Thượng Đế và sự che chở của nhà Tiên Tri, của các giáo chủ và các tín đồ. Không có gì xẩy ra cho dân chúng cả một khi họ đóng thuế đầy đủ”.
Vì Damascus được người thời đó coi là một kinh thành cổ nhất của thế giới nên vua Heraclius phải tìm cách chiếm lại. Nhà vua này đã tập trung 50 ngàn quân để đánh đuổi người Ả Rập ra ngoài sa mạc. Trước sức mạnh lớn lao này, tướng Khalid đã rút quân khỏi kinh thành Damascus, lui về gần dòng sông Yarmurk tại phía nam của biển Galilee và chờ đợi.
Cuối cùng hai đạo quân đối đầu nhau vào một ngày mùa hè nóng nực trong năm 636, gió thổi mạnh từ hướng đông nam, tung cát vào mặt đoàn quân Byzantine đang tiến tới. Lợi dụng lúc này, quân Hồi giáo đã che mặt, theo trận gió cát mà tấn công dữ dội kẻ địch. Viên chỉ huy của lực lượng Byzantine là Theodorus bị giết và đoàn quân lớn mạnh nhất của ông ta cũng bị tàn sát. Sau trận đánh quyết định này, tất cả miền Syria và Palestine đều rơi vào tầm tay của người Ả Rập ngoại trừ hai thành phố Caesarea và Jerusalem.
2/ Giáo Chủ Umar.
Trước ngày chiến thắng kể trên 2 năm, ông Abu Bakr đã qua đời vì bị bệnh sốt vào năm 634 ở tuổi 52 nhưng trước khi chết, đã nghĩ tới người kế tiếp mình. Ông Umar được chọn vì là một người cố vấn của nhà Tiên Tri và cũng của ông Abu Bakr. Ông Umar đã tự gọi mình là “Người kế tiếp của người kế tiếp của Sứ Đồ của Thượng Đế” (Successor of the Successor of the Messenger of God) nhưng về sau dùng danh hiệu đơn giản hơn là “Lãnh tụ của các tín đồ” (Commander of the Faithful).
Ông Umar là một trong vài giáo chủ đạo Hồi lớn lao nhất vì là nhân vật có đủ năng lực, can đảm và khiêm tốn với niềm tin đạo rất cao. Chuyện còn kể rằng đã có lần ông Umar đánh đứa con trai bằng roi vì các hành vi thiếu đạo đức của cậu con này. Giáo chủ Umar lãnh đạo Hồi giáo trong một thập niên, vào thời gian này đạo Hồi đã thực hiện được các cuộc chinh phục lớn lao nhất.
Sau khi Tướng Khalid đánh thắng đoàn quân Byzantine, kinh thành Jerusalem đã cầm cự được cuộc vây hãm trong một năm, cho tới năm 637, giáo trưởng của kinh thành là Sophonius chấp nhận đầu hàng với điều kiện rằng vị giáo chủ đạo Hồi phải ra nhận bàn giao thành phố thánh địa. Ông Umar đồng ý với đề nghị kể trên và đã dùng lạc đà đi từ Medina, trên mình vẫn mặc bộ y phục tầm thường, nhiều miếng vá. Khi tới Jerusalem, giáo chủ Umar đã cư xử tử tế đối với những người Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo, giống như Tướng Khalid đã ôn hòa đối với cư dân thành phố Damascus.
Trong khi thăm viếng ngôi Nhà Thờ Chúa có Ngôi Mộ Đá (the Church of the Holy Sepulcher), nơi mà người Thiên Chúa giáo tin tưởng rằng đây chính là ngôi mộ của Chúa Kitô, và vào thời giờ mà người Hồi giáo cầu nguyện, giáo chủ Umar đã không cầu kinh trong khuôn viên nhà thờ để tránh cho sau này các người theo đạo Hồi không đòi hỏi ngôi nhà thờ này trở thành đền thờ Hồi giáo. Ông Umar đã ra bên ngoài bãi đất trống, hướng về thành phố Mecca mà sụp lạy.
Sau khi đã chiếm xong hai xứ Palestine và Syria, các đoàn quân Hồi Giáo tiếp tục các chinh phục mới. Vào năm 61, một danh tướng Hồi khác tên là Amr ibn al-As bắt đầu đưa quân qua Ai Cập, mở đầu việc tràn qua Bắc Phi. Lý do chính của công cuộc chinh phục này là vì đồng bằng sông Nile là một vựa ngũ cốc và xứ Ai Cập có thể là một căn cứ phản công của thế lực Byzantine. Sau 7 tháng vây hãm, thành Babylon, gần thành phố Cairo ngày nay, đã phải đầu hàng và sau 3 năm, thành phố Alexandria và toàn thể xứ Ai Cập nằm dưới quyền của người Hồi.
Trong khi một đoàn quân Hồi đánh chiếm Ai Cập thì đế quốc Ba Tư cùng với tất cả kho tàng cũng thuộc về thế lực Hồi giáo vào năm 644, như vậy lãnh thổ của đạo Hồi đã trải dài từ miền Địa Trung Hải tới tận xứ Ấn Độ. Các miền đất khác nhau này đều thuộc quyền hành của giáo chủ Umar và vài nhân vật kế tiếp. Chính sách cai trị của giáo chủ Umar được căn cứ vào các lời giảng dạy trong kinh Koran qua đó việc bắt buộc đóng thuế đã được xác định như sau: “Hãy đánh chiếm các kẻ nào không tuân theo tôn giáo của sự thật cho đến khi nào họ nạp tiền thuế”. Như vậy đối với những người không theo đạo Hồi, họ thường phải nạp thuế thân và thuế đất.
Tại các xứ sở quy phục đạo Hồi một cách hòa bình, người dân được giữ lại mảnh đất và được che chở vì đã đóng thuế. Đối với các dân tộc chống lại bằng sức mạnh, tài sản và đất đai của họ bị coi là chiến lợi phẩm và theo như kinh Koran quy định, 1/5 của cải chiếm được thuộc về đạo Hồi, phần còn lại chia cho các chiến binh. Tuy nhiên người Hồi cho rằng họ có lợi hơn nếu các dân tộc bị chinh phục chịu đầu hàng, trả thuế và cung cấp thực phẩm cho các đoàn quân chiếm đóng.
Các dân tộc bị chinh phục bởi các đạo quân Hồi giáo không bị bắt buộc phải cải theo đạo Hồi nhưng họ không được hành lễ bên ngoài các ngôi giáo đường của họ, bị cấm đánh chuông, cấm xây dựng các tòa nhà thờ phượng mới và dù sao, họ vẫn cảm thấy dễ chịu hơn trước, khi sinh sống dưới quyền thống trị của các thế lực cũ. Còn về các dân tộc cải sang đạo Hồi, họ bị gọi là “mawali”, một tầng lớp dân chúng thấp kém, để phân biệt với giai cấp cai trị người Ả Rập, và họ phải đóng nhiều thuế hơn so với người dân gốc Ả Rập.
Ông Umar tiếp tục củng cố việc công việc cai trị đế quốc Hồi giáo cho tới năm 644, vị giáo chủ này đã bị một tên nô lệ theo Thiên Chúa giáo đâm chết khi ông ta đang cầu nguyện vào lúc rạng đông. Trước khi qua đời, ông Umar còn biểu lộ sự vui mừng là tên sát nhân không phải là một người theo Hồi giáo.
Ông Umar đã thực hiện sứ mạng bằng hai đường hướng, do khuyến khích việc bành trướng đế quốc Hồi giáo qua cách tiếp tục công cuộc thánh chiến “jihad” và do cách truyền giáo có hệ thống tới các bộ lạc Bedouin, với chủ đích thay thế các niềm tin thần linh bộ lạc bằng lòng trung thành vào thứ thần quyền mới và vào các giáo lệnh của nhà Tiên Tri. Cũng nhờ các cuộc chinh phục, các bộ lạc trong đế quốc Hồi giáo trở nên giàu có hơn nhờ các chiến lợi phẩm, nhờ việc chiếm đóng các miền đất trù phú mới.
3/ Giáo chủ Uthman.
Sau đó quyền hành giáo chủ được chuyển qua ông Uthman, một nhà quý tộc Hồi giáo cao niên, mộ đạo nhưng ưa thích mặc áo đẹp. Ông Uthman thuộc gia đình Umayyad giàu có và thế lực, đã chống lại nhà Tiên Tri vào lúc ban đầu nhưng sau chiến thắng của đạo Hồi, đã ngả theo quyền lực mới.
Ông Uthman đã giữ chức giáo chủ trong 12 năm. Công trình chính của ông là việc tiêu chuẩn hóa kinh Koran. Trong thời kỳ này đã có nhiều địa phương chống đối chính quyền trung ương, lý do chính vì ông Uthman đã bổ nhiệm nhiều người nhà và bạn thân vào các chức vụ cao, đặc biệt tại xứ Ai Cập, viên tổng trấn cũ đã bị thay thế bởi người bà con của giáo chủ là người chỉ có khả năng thu thuế giỏi, hơn là cai trị tốt. Đoàn 500 người Ả Rập phản đối đã về Medina để khiếu nại nhưng do áp lực của gia đình, giáo chủ Uthman đã lên án họ nhân buổi lễ vào ngày thứ Sáu tại một ngôi đền Hồi giáo. Các kẻ chống đối sau đó đã bao vây ngôi nhà của giáo chủ và một tên lính đã lẻn vào phòng và đâm chết ông Uthman. Đây là lần đầu tiên một vị giáo chủ đạo Hồi bị một người Hồi giáo ám sát và sự việc này đã làm chia rẽ đạo Hồi, tạo nên các cuộc nội chiến sau này.
4/ Giáo Chủ Ali.
Giáo chủ mới được bầu lên trong số những vị cao niên uy tín của đạo Hồi để thay thế ông Uthman, là ông Ali. Đây là con trai của người chú, ông Abu Talib, người đã nuôi dưỡng nhà Tiên Tri lúc ban đầu. Ông Ali còn là con rể của nhà Tiên Tri, đã kết hôn với Fatima và là một trong vài người đầu tiên công nhận sự mặc khải của giáo chủ Mohammed.
Ông Ali còn được nhiều người kính trọng vì tính tình rộng lượng, vì tài hùng biện và nhất là vì tài năng của một tướng lãnh. Vào thời gian này, ông ta là một người mập mạp, đầu hói, có râu bạc trắng, dáng người bệ vệ đủ gây uy tín đối với mọi người khác. Nhiều người còn cho rằng đáng lý ra ông Ali phải là vị giáo chủ thứ nhất mà không phải là thứ tư.
Khi mới nhận chức vị giáo chủ, ông Ali đã gặp phải nhiều chống đối dữ dội, đặc biệt từ hai người cùng tranh chức vị và từ nàng A’isha, bà vợ góa trẻ của nhà Tiên Tri. Có sử gia cho rằng mối oán thù này là do nàng A’isha bị ông Ali nghi ngờ về tấm lòng chung thủy khi nàng đến thành phố Medina trễ cùng với một người bộ lạc trẻ với lý do ở lại để tìm kiếm một món nữ trang bị thất lạc, và nàng A’isha đã không bao giờ tha thứ cho ông Ali về vấn đề này.
Tới khi chức vụ giáo chủ bị bỏ trống, nàng A’isha đã hợp tác với hai nhân vật nhiều tham vọng tên là Zubair và Talha, âm mưu một cuộc nổi loạn, tố cáo ông Ali đã không đưa vụ ám sát ông Uthman ra công lý. Các người âm mưu đã chiếm được thành phố quân sự Basra thuộc xứ Iraq, lật đổ viên tổng trấn theo phe của ông Ali.
Do không có lực lượng quân sự để dẹp tan những người nổi loạn, ông Ali đã cùng một số người ủng hộ tại Medina, đi tới thành phố Kufa cách Basra 200 dặm về phía tây bắc, rồi cả hai phe củng cố binh lực. Tại Basra, hai đội quân Hồi giáo đối đầu nhau trong một trận giáp chiến danh tiếng được gọi là “Trận Chiến Lạc Đà” (The Battle of the Camel), bởi vì trong trận đánh này, nàng A’isha thúc quân từ một cái kiệu đặt trên lưng một con lạc đà. Trận chiến kết thúc với chiến thắng về phía ông Ali, với một kẻ đối nghịch bị giết trong trận mạc và kẻ thứ hai thiệt mạng sau này do các người Bedouin, nàng A’ish bị giải về thành phố và sống một cuộc đời âm thầm từ đó.
Sau chiến thắng này, ông Ali đã không đặt bộ chỉ huy mới tại Medina mà tại Kufa nằm ngay trung tâm của đế quốc Hồi giáo và ông đã cố gắng tìm cách hòa giải với các kẻ thù cũ, tuy nhiên các khủng hoảng đã xẩy ra tại Syria khi ông Ali tìm cách thay thế những người thân thuộc của cựu giáo chủ Uthman. Một trong những người này là Mu’awiya, viên tổng trấn quyền thế của xứ Syria và cũng thuộc gia đình Umayyad của thành phố Mecca. Ông Mu’awiya đã không chịu rút lui dễ dàng mà đã tố cáo ông Ali đồng lõa trong vụ giết giáo chủ Uthman và yêu cầu ông Ali mang vụ sát nhân ra xét xử. Việc đòi hỏi này đã được nhiều người ủng hộ và sau đó, sự do dự của ông Ali bị tố cáo là cách che chở cho các kẻ phạm pháp. Trong một buổi lễ tại một đền thờ Hồi giáo thuộc thành phố Damascus, ông Mu’awiya đã cho trưng ra tấm áo đẫm máu mà cựu giáo chủ Uthman đã mặc.
Ông Mu’awiya không những là một nhà cai trị có khả năng mà còn là một chính khách khéo léo. Ông ta được sự ủng hộ của dân chúng Syria và của viên tướng Amr, người đã bị giáo chủ Ali cho thay chức tổng trấn tại Ai Cập.
Sự chống đối trong nội bộ đạo Hồi đã khiến cho giáo chủ Ali phải dẫn quân đội tới đối phó với ông Mu’awiya. Hai đoàn quân đối mặt nhau vào tháng 7 năm 657, gần thành phố La Mã cổ Siffin, thuộc phía bắc của thung lũng con sông Euphrates. Sau một trận chiến ác liệt, quân của ông Mu’awiya đã phải thoái lui nhưng sau đó viên tướng Amr đã cho quân sĩ cắm trên đầu ngọn giáo các trang giấy của cuốn kinh Koran và hô lớn câu “Quyết định chỉ thuộc về Thượng Đế”, khiến cho binh lính của ông Ali từ chối chống lại các người đang làm theo Lời của Thượng Đế. Cuộc chiến vì thế bị ngưng lại và việc dàn hòa kéo dài trong 6 tháng.
Do giáo chủ Ali chấp nhận sự đàn hòa, phe Mu’awiya đã ở tại vị thế ngang bằng, lại được sự cố vấn của một người vừa quỷ quyệt, vừa xuất sắc là Amr. Tướng Amr đã đề nghị nên chọn một vị giáo chủ mới cho việc tranh chấp. Ông Ali đã không chấp nhận điều này nhưng cũng không làm sao tiếp tục cuộc chiến chống lại ông Mu’awiya. Vì các chia rẽ nội bộ, các kẻ chống đối ông Ali sau đó đã lập ra một phe ly khai gọi tên là Kharijites.
Vào tháng 7 năm 658, quân lực của ông Ali và của phe Kharijites đã đối đầu nhau trong một trận chiến tại phía đông của dòng sông Tigris, thuộc miền trung tâm của xứ Iraq. Ông Ali đã thắng trận này nhưng lực lượng của ông bị suy yếu, không đủ sức chống lại phe Syria do ông Mu’awiya chỉ huy và phe này đã lập nên một miền đất bao gồm cả xứ Ai Cập, độc lập trong đế quốc Hồi giáo và quân đội Syria đã nhiều lần đánh phá các thành phố của ông Ali.
Ba năm sau khi chiến thắng phe ly khai, một hôm giáo chủ Ali vào cầu nguyện trong một ngôi đền Hồi giáo tại Kufa thì bị một kẻ cuồng tín Kharijite từ chỗ ẩn núp, xông ra và dùng gươm đâm chết. Các người trung thành với ông Ali đã quy tụ chung quanh người con trai lớn Hasan của cựu giáo chủ nhưng Hasan là một người không có tham vọng chính trị nên sau vài tháng, đã quy phục viên tổng trấn Syria để nhận được món trợ cấp lớn, vì vậy chức vụ giáo chủ thuộc về ông Mu’awiya.
5/ Các triều đại Umayyads.
Ông Mu’awiya trở nên giáo chủ đạo hồi vào năm 661, đã thiết lập tại Damascus một thủ đô Hồi giáo mới bởi vì từ lâu, ông ta đã hiểu rõ miền này và ông đã cai trị xứ sở Hồi giáo như một nhà vua thông thường hơn là một lãnh tụ tôn giáo. Chung quanh ông là các cố vấn có thể nói thẳng mà không sợ bị trừng phạt. Quyền lực Hồi giáo này dựa vào đội quân Syria được tập trung dần dần vào trung ương và từ nay, các giáo chủ Umayyads càng trở nên độc tài hơn.
Dưới các triều đại Umayyads, văn hóa Hồi giáo bắt đầu thành hình, tiếng Ả Rập từ nay trở nên ngôn ngữ chính, thay thế tiếng Hy Lạp và tiếng Ba Tư. Các loại tiền tệ Hồi đầu tiên ra đời gồm có các đồng dinars bằng vàng và dòng dirhams bằng bạc, trên đó có khắc các câu văn trích trong kinh Koran. Hệ thống thông tin được khai triển bằng cách dùng cách truyền tin bằng ngựa. Nhiều công trình đào kênh và làm đường được bắt đầu, nhiều đền thờ Hồi giáo rực rỡ được xây dựng nên, đặc biệt nhất là Ngôi Đền Lớn tại Damascus.
Các vua chúa của triều đại Umayyads là những người hưởng thụ mọi xa hoa vật chất trong đế quốc Hồi giáo, nhưng họ cũng là các nhà lãnh đạo quốc gia có tài, về phía đông đã xâm lấn tới thung lũng Indus của xứ Ấn Độ, còn về phía tây đã chiếm đóng lãnh thổ Tây Ban Nha và bờ biển Đại Tây Dương. Từ năm 711, đạo quân Hồi đã tiến vào Gibraltar và trong vòng 7 năm, toàn thể bán đảo Iberian đã nằn dưới quyền cai trị của người Hồi. Tại miền Trung Đông, sau khi chiếm giữ Syria, quân đội Hồi tiến gần tới thành Constantinople, đóng quân tại một địa điểm trọng yếu gần thủ đô của xứ Byzantine này trong 7 năm trước khi phải rút lui.
Giống như các triều đại khác, đế quốc Umayyads cũng dần dần suy kém vì các mối bất hòa nội bộ, vì kinh tế suy thoái và các bất công xã hội. Tầng lớp người bất mãn nhất trong xã hội Hồi giáo này có tên là “mawali”, họ là những người cải sang đạo Hồi nhưng vẫn bị coi là thấp hèn, vẫn phải đóng các loại thuế cao, khi được tuyển vào trong quân đội họ bị xếp vào đội ngũ bộ binh, nhận ít lương hơn nhiều so với giới kỵ binh là những thành phần quý tộc. Đã có nhiều vị lãnh đạo Hồi giáo tìm cách sửa chữa bớt các bất công, đặc biệt là giáo chủ Umar II trị vì từ năm 717 tới năm 720. Ông này đã cải tổ thuế vụ, ra đạo luật miễn mọi thứ thuế cho người Ả Rập ngoại trừ thuế tôn giáo bắt buộc. Tuy nhiên cải cách này đã làm suy yếu nền kinh tế của đất nước và các giáo chủ kế tiếp không tìm ra phương cách sửa chữa.
Do bất mãn, nhiều người Hồi đã tham gia các phe phái chống lại triều đình Umayyad strong số này có nhóm Kharijites và nhóm chủ trương quân phiệt Shi’a hay Shi’ite. Đây là những người tin rằng dòng họ Umayyads đã chiếm đoạt ngôi vị giáo chủ chân chính của ông Ali và những người kế tiếp.
Khi ông Mu’awiya qua đời vào năm 680, phe Shi’a đã cố gắng giành cho người con nhỏ của ông Ali tên là Husayn lãnh ngôi vị giáo chủ. Cùng với gia đình và một số người ủng hộ, ông Husayn đã đi từ Medina tới thủ đô Kufa cũ nhưng trên đường đi, ông ta bị chặn lại do một toán quân dưới quyền của Yazid là con trai giáo chủ Mu’awiya. Ông Husayn này đã bị bắt, bị giữ 10 ngày rồi bị chém đầu, đầu lâu đưa về cho ông Yazid đóng đô tại Damascus.
Sự việc giết chết người cháu của nhà Tiên Tri đã làm chấn động thế giới Hồi giáo và gây thêm kẻ thù chống lại triều đại Umayyads. Hiện nay ngày tử nạn của ông Husayn vẫn còn được thế giới Hồi giáo kỷ niệm.
Để phản kháng chính quyền trung ương, các bộ lạc Bedouin trước kia chia rẽ, nay đoàn kết lại với nhau và với các phe phái khác để tìm cách lật đổ triều đại Umayyads. Trong số phe chống đối, đáng kể nhất là đảng Abbasid, đứng đầu do một người Hồi nhiều thủ đoạn tên là Abbas, có nguồn gốc từ một người chú của nhà Tiên Tri Mohammed. Trung tâm của đảng Abbasid này được đặt trong xứ Ba Tư và người dân của xứ sở này vẫn tự coi là có nền văn hóa cao hơn người Ả Rập. Phe Abbasid còn tuyên truyền rộng lớn rằng các vua Umayyads không phải là các giáo chủ chính thống, đã theo lối sống suy đồi mà quên đi nền chính trị thần quyền Hồi giáo.
Phe Abbasid đã nổi dậy vào tháng 7 năm 747, dùng ngọn cờ đen làm biểu hiệu, lật đổ viên tổng trấn Umayyad tại Ba Tư và chiếm giữ quyền hành. Đoàn quân Ba Tư dưới quyền chỉ huy của Tướng Abu Muslim đã đánh thắng đạo quân địch. Sau đó các người Hồi này đã tôn ông Abbas lên làm giáo chủ vào năm 749 và qua năm sau, đoàn quân Ba Tư dàn trận tại Great Zab, gần nhánh sông Tigris thuộc phía bắc Iraq. Vị giáo chủ gốc Umayyad thua trận, phải bỏ chạy qua xứ Ai Cập rồi về sau bị bắt, đầu bị chém và đưa về trình vị giáo chủ mới. Kể từ khi ông Mu’awiya lên nắm quyền vào năm 661 tới khi dòng họ Umayyads cuối cùng bị lật đổ vào năm 750, đã có 14 giáo chủ đạo Hồi thuộc về dòng họ này.
Các người thuộc thế lực Hồi giáo mới tại Ba Tư đã tìm cách quét sạch hệ thống cai trị trước. Trong cuộc tàn sát tiêu biểu nhất, viên tướng Ba Tư tên là Abdullah đã mời hơn 80 nhân vật thuộc dòng họ Umayyads tới dự một bữa tiệc rồi vào giữa cuộc vui, đã ra lệnh giết sạch những ngươi kể trên, che phủ các tử thi rồi tướng Abdullah cùng các người khác lại tiếp tục ăn uống. Trong cuộc tàn sát tập thể này, chỉ có một người tên là Abd al-Rahman thuộc dòng họ Umayyad trốn thoát được, đã lẩn tránh sau đó qua xứ Tây Ban Nha và lập ra một triều đại tồn tại trong 300 năm.
Các người Abbasids còn tìm cách khai quật các ngôi mộ của các vị giáo chủ Umayyads trước kia, ngoại trừ mộ phần của ông Umar II không bị xúc phạm bởi vì họ coi ông này là vị lãnh tụ Hồi giáo chân chính duy nhất. Để củng cố chính quyền, các người Abbasids tìm cách loại trừ một cách độc ác mọi kẻ chống đối, kể cả phe Shi’ite. Abu Muslim là viên tướng Ba Tư xuất sắc cũng bị nghi ngờ và bị chém thành nhiều mảnh. Một nạn nhân danh tiếng khác là viên tướng đã từng tàn sát hơn 80 nhân vật Umayyad trong bữa đại tiệc.
Triều đại Abbasid đã kéo dài được 500 năm với giai đoạn rực rỡ nhất dưới thời giáo chủ đạo Hồi Harun al-Rashid, từ năm 786 tới năm 809.
6/ Đạo Hồi ngày nay.
Hiện nay có vào khoảng một tỉ người theo đạo Hồi, rải rác trên 40 quốc gia thuộc cả 5 lục địa. Đạo Hồi là một tôn giáo lớn, linh hoạt, đang phát triển nhưng các cộng đồng theo Hồi giáo lại khác nhau về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục v.v. bởi vì đây là một thế giới rộng lớn, đa quốc gia, đã từng xuất phát từ một nền văn minh nhiều ảnh hưởng sâu sắc.
Kế tiếp nhà Tiên Tri Mohammed có 4 nhân vật được coi là các vị giáo chủ chân chính, đã lãnh đạo thời đại Hồi giáo lý tưởng trong khoảng 30 năm. Vị giáo chủ thứ hai là ông Umar, điều hành từ năm 634 tới năm 644, đã lập nên 2 thành phố Hồi giáo mới là Al Basra vào năm 635 và Kufa vào năm 638 và từ hai nơi này mà nền cai trị được tiến hành về hai hướng đông và tây.
Sau khi vị giáo chủ thứ 4 Ali qua đời, ông Mu’awiya đã lập nên triều đại Umayyads, cai trị đế quốc Hồi giáo trong gần một thế kỷ. Những người theo giáo chủ Ali về sau lập ra giáo phái Shi’a hay Shi’ite, với các giáo điều và lý thuyết thần học khác biệt. Biến cố lịch sử của giáo phái này là cái chết bị thương tại Karbala của ông Husayn, người con trai của ông Ali, cùng với bà Fatima, người con gái của nhà Tiên Tri Mohammed. Ông Husayn cùng với gia đình 70 người đã bị tàn sát do đội quân của ông Yazid, giáo chủ thứ 6 thuộc dòng họ Umayyads. Người Hồi giáo Shi’a coi ông Husayn là một nhân vật tử đạo, đã sống theo đúng lời răn cho tới chết.
Giáo phái Shi’a, hay Shi’ite, có nhiều nhánh, trong đó nhánh Ithna Ashiriyya hay nhánh 12 Shi’a, chủ trương rằng nhà Tiên Tri đã chỉ định 12 người kế tiếp, được gọi là 12 imams hay lãnh tụ cộng đồng Shi’a, những người này được thừa kế từ cha xuống con với thẩm quyền chính trị bắt đầu từ chính nhà Tiên Tri Mohammed. Nhà lãnh tụ Iran nổi tiếng Ayatollah Khomeini đã từng là một imam tối cao.
Trong đạo Hồi còn có giáo phái Sunni rất quan trọng. Khởi đầu từ triều đại Abbasid tức là vào năm 750, giáo phái này chủ trương 4 trường phái về luật lệ tôn giáo (4 legal schools): Malikis, Hanafis, Shafi’is và Hanbalis. Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Shi’ite khác nhau giống như đạo Cơ Đốc (Catholicism) và đạo Tin Lành (Protestantism) dù cho cùng là đạo Thiên Chúa. Đạo Hồi Shi’ite có các đẳng cấp tu sĩ giống như đạo Cơ Đốc, với vị Imam tối cao giống như Giáo Hoàng. Người theo đạo tin tưởng vào các truyền thống huyền bí và trong lịch sử của họ đã có nhiều anh hùng cũng như nhân vật tử đạo (martyrs), nhiều luật lệ về thừa kế và ly dị được coi là cởi mở hơn đối với phụ nữ, một phần cũng vì lòng kính trọng bà Fatima, vợ của ông Ali và cũng là người con gái của nhà Tiên Tri.
Đạo Hồi Sunni không có giới tu sĩ chính thức mà chỉ có các học giả (scholars) và các nhà luật học (jurists) góp các ý kiến về các luật lệ và tập tục theo Hồi giáo. Người theo đạo Hồi Sunni tin tưởng các thẩm quyền lãnh đạo cộng đồng hơn là các nhà chính trị và một người theo đạo này có quyền chọn một trong 4 trường phái tư tưởng Hồi giáo. Trong các cộng đồng Sunni, các học giả tôn giáo được kính trọng và là những người có quyền lực về mặt xã hội, ảnh hưởng tới nền chính trị.
Sau thời kỳ của 4 vị giáo chủ chân chính, đạo Hồi đã không thể đoàn kết lại thành một định chế về mặt tôn giáo và chính trị, và thông thường trong đạo Hồi vẫn có hai thế lực xung đột nhau. Trong chiều dài của lịch sử, các người Shi’ite thường bị ngược đãi nhưng kể từ cuộc Cách Mạng Iran năm 1979 do ông Khomeini lãnh đạo, các tranh đấu vì lý tưởng Shi’ite đã lan rộng. Iran đã ủng hộ các người Hồi giáo thuộc các xứ Palestine, Afghanistan và Lebanon. Nhóm du kích Hezbollah là một tổ chức Shi’ite.
Ngược lại tại xứ Iraq và dưới quyền cai trị của nhà độc tài Saddam Hussein, đa số người Hồi giáo Shi’ite đã bị đàn áp một cách tàn nhẫn, các đền thờ Shi’ite linh thiêng bị triệt hạ, các lãnh tụ Shi’ite bị ám sát hoặc phải bỏ chạy qua xứ Iran, và ngay cả ông Mohammed Sadiq al-Sadr, dù cho đã được Saddam Hussein bổ nhiệm làm nhà lãnh đạo cộng đồng Shi’ite, cũng vẫn bị hành quyết vào năm 1999 khi ảnh hưởng của ông ta đủ lớn lao. Người kế tiếp là Đại Ayatollah Sayyed Ali al-Sistani cũng bị quản chế trong 15 năm.
Ngoài hai giáo phái chính Sunni và Shi’ite, còn một giáo phái đạo Hồi quan trọng khác: giáo phái Sufi. Giáo phái này chủ trương truyền thống khắc kỷ (ascetic tradition), chú trọng tới tính linh thiêng (spirituality) hơn là các luật lệ tôn giáo. Vào thế kỷ thứ 9, giáo phái Sufi đã làm phát triển các giáo điều huyền bí và trong các buổi lễ, các giáo dân Sufi cùng nhau nhẩy nhót theo nhiều nhịp điệu tôn giáo cuồng nhiệt.
Đạo Hồi Sufi chú trọng vào tấm lòng yêu thương Thượng Đế, nhấn mạnh vào kiến thức trực giác (intuitive knowledge), làm phát triển tập thể giáo dân do chủ trương tình huynh đệ, do các hành động nhân đạo như việc giúp đỡ các kẻ nghèo khó thuộc đủ mọi loại đức tin. Các người theo đạo Hồi Sufi là những kẻ trung gian giữa dân chúng và chính quyền, và cũng vì những việc làm từ thiện của họ mà họ đã thành công và thế giới Hồi giáo đã lan rộng ra ngoài vùng Trung Đông, tới nhiều vùng thuộc châu Phi và Đông Nam Á.
Sở dĩ đã xẩy ra các xung đột giữa các giáo phái của đạo Hồi bởi vì đã có các mâu thuẫn giữa các tinh thần lý tưởng (idealism) và tinh thần thực tế (pragmatism), giữa các đòi hỏi tổng quát về chân lý đối nghịch với các nhu cầu thực tế của hoàn cảnh chính trị. Thực tại này tương tự như trường hợp của nước Pháp sau cuộc Cách Mạng năm 1789 hay của nước Nga năm 1917 sau khi đảng Bolshevik nắm được chính quyền. Các người theo đạo Hồi hiện nay đang tìm kiếm một căn bản ý thức hệ để dùng vào việc thiết lập một trật tự Hồi giáo mới.
Nguồn: khamphalichsu.com