Các nhà khoa học và triết học của Đạo Hồi
Nguồn: Sưu tập
1. Các nhà khoa học và triết học của Đạo HồiHiện nay, các danh từ như đại số (algebra = al-jabr), thuật giả kim (alchemy = al-kimiya), chất kiềm (alkali = al-qili), độ phương vị (azimuth = al-sumut) cùng nhiều danh từ khoa học khác đều có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập và từ đạo Hồi, như vậy các nhà toán học, hóa học, kinh tế, bác sĩ … đều mang nợ các khoa học của đạo Hồi sống vào thời Trung Cổ. Trong suốt 5 thế kỷ, từ thế kỷ 9 tới thế kỷ 14, trong đạo Hồi đã có các nhà vật lý, hóa học, toán học, thiên văn học, địa dư học… họ không những làm sống lại nền Khoa Học của xứ Hy Lạp mà còn nới rộng, đào sâu, lập nên nền móng của nhiều bộ môn kiến thức ngày nay.
Nền khoa học của đạo Hồi không những chỉ quan tâm tới môi trường vật lý của con người mà còn tìm cách phân tích con người theo tinh thần, theo xã hội trong đó con người sinh sống. Tinh thần tìm hiểu này đã phát triển tốt đẹp khiến cho nhiều người phương tây thời bấy giờ đã phải hướng về các nhà khoa học của đạo Hồi để học hỏi.
Các nền khoa học của Hồi giáo đã căn cứ vào sự hiểu biết của người Hy Lạp thuộc nhiều thế kỷ về trước theo đó ngự trị trong vũ trụ trông có vẻ phức tạp, thực ra có các định luật tổng quát mà con người có thể hiểu rõ bằng lý trí (reason) nhờ đó nhiều hiện tượng tưởng chừng như không liên hệ với nhau mà thực ra đã bị chi phối bởi cùng một nguyên lý, chẳng hạn như về Thiên Văn Học, nếu một nhà khoa học hiểu rõ định luật đã khiến cho các thiên thể đi theo các quỹ đạo, thì nhà khoa học này có thể tiên đoán vị trí của một ngôi sao trong nhiều năm tới.
Sự hiểu biết vũ trụ, theo danh từ Ả Rập, được gọi là “falsafa”, bao gồm mọi kiến thức của con người, cả về phương diện lý thuyết cũng như thực hành, gồm cả các khoa vật lý, tự nhiên và triết học cũng như các học thuyết tôn giáo. Như vậy một triết gia về khoa học (a scientist philosopher) của thời đại bấy giờ không phải là một chuyên gia về một ngành học eo hẹp mà là một học giả hiểu rõ nhiều phạm vi học thuật như y khoa, thiên văn, hóa học, toán học, luận lý, siêu hình và ngay cả âm nhạc và thơ văn. Thời đó không có nhiều học giả với trình độ cao, những vị này đã sinh sống nhờ sự bảo trợ của một triều đình hay của vài gia đình giàu có, và sự uyên bác của họ đã khuyến khích việc tìm hiểu kiến thức tại các thành phố thuộc thế giới Hồi giáo và đã thu hút các học viên từ khắp nơi theo học các trường học của đạo Hồi.
Trong khi kiến thức được tìm hiểu và mở rộng thì các áp dụng thực tế đã mang lại các ích lợi cho đời sống hàng ngày, chẳng hạn như bộ môn Toán Học đã đáp ứng các nhu cầu trong các ngành thương mại và đo đạc, như bộ môn Thiên Văn đã xác định giờ cầu nguyện, ngày mặt trăng xuất hiện đầu tiên trong tháng Ramadan, phương hướng nhắm về thành phố Mecca và sự hiểu biết các tinh tú trên bầu trời đã hướng dẫn các kẻ đi xa trên đất liền và trên biển cả.
1/ Ngành Y Khoa.
Trong nhiều phạm vi học thuật, các nhà khoa học Hồi giáo rất hiểu rộng nhưng họ xuất sắc nhất về ngành Y Khoa. Trước kia, người Ả Rập thường tin tưởng vào những điều dị đoan, gồm cả việc dùng bùa ngải, dùng các lời cầu nguyện và một số thuốc men sơ khai như loại phẩm đỏ (henna) để chữa bệnh xưng khớp xương, mật ong để trị bệnh nhức đầu và bệnh sốt, họ cũng dùng một số lá cây để cầm máu. Qua thế kỷ thứ 8, trường Y Khoa của xứ Ba Tư tại thành phố Jundishapur bắt đầu giảng dạy các phương pháp trị bệnh căn cứ vào những điều thực hành hữu lý của các y sĩ Hy Lạp. Tới năm 765, khi nhà cai trị thành phố Baghdad là Mansur bị chứng đau dạ dầy kinh niên và các lương y của thành phố kể trên không thể chữa khỏi, vì thế vị giáo chủ đạo Hồi đã phải trông cậy vào vị y sĩ chính của thành phố Jundishapur, tên là Jurjis Ibn Bakhtishu, một người theo đạo Thiên Chúa. Ông Jurjis đã thành công và được bổ nhiệm làm y sĩ của triều đình.
Thành phố kiến thức đã thu hút các học giả vào đầu thế kỷ 9 là Baghdad. Khi cai trị từ năm 813 tới năm 833, giáo chủ đạo Hồi Ma’mun đã thiết lập một trung tâm học thức gọi là “Tòa Nhà Hiểu Biết” (The House of Wisdom) bên trong gồm có một thư viện, một cơ sở phiên dịch và một trường học. Giống như nhiều nhà lãnh đạo đương thời, giáo chủ Ma’mun lúc đầu rất do dự khi lý luận về vũ trụ của Thượng Đế nhưng rồi, theo chuyện kể lại, ông ta đã gặp vong hồn của nhà triết học Aristotle trong một giấc mơ và Aristotle đã bảo đảm với giáo chủ rằng sẽ không có sự xung khắc giữa lý trí (reason) với tôn giáo, do đó giáo chủ Ma’mun đã ra lệnh thiết lập trung tâm học thức kể trên.
Từ nay, trong khoảng thời gian 75 năm, các tư tưởng cao siêu của các học giả của xứ Hy Lạp và của các dân tộc khác đã được chuyển dịch sang tiếng Ả Rập trong số này đáng kể là các tác phẩm của Aristotle, Plato (triết học), các khảo cứu chính yếu của Euclid (toán học), Ptolemy (thiên văn), Archimedes (vật lý) và của nhóm y sĩ Hy Lạp danh tiếng như Hippocrates, Dioscorides và Galen cũng như nhiều công trình khoa học của người Ba Tư, người Ấn Độ… Những bản văn gốc một phần từ những chiến lợi phẩm khi quân đội Hồi giáo xâm chiếm xứ Byzantium và Ba Tư, một phần do các phái viên của giáo chủ Ma’mun gửi đi xa, chẳng hạn tới tận thành phố Constantinople để thu thập các văn bản Hy Lạp rồi mang về Baghdad.
Tại Tòa Nhà Hiểu Biết, các học giả Hồi giáo đã chuyển dịch hàng ngàn tác phẩm, mở đầu các công tác trí thức. Một trong các nhà bác học của tòa nhà kể trên là Hunayn ibn Ishaq, dịch giả của nhiều tác phẩm của Galen. Sinh ra tại Hira thuộc miền tây của xứ Ba Tư, ông Hunayn đã theo học y khoa tại Baghdad dưới sự hướng dẫn của một vị bác sĩ đã từng giảng dạy tại trường y khoa Jundishapur, một nơi đã gây nên các ảnh hưởng sâu sắc tới nền y học Hồi giáo. Một hôm Hunayn đã hỏi thầy dạy các câu hỏi khó trả lời, khiến cho ông thầy nổi giận, đuổi Hunayn ra khỏi lớp học. Cậu sinh viên này do bất mãn, đã theo học nhiều vị giáo sư khác, học thêm tiếng Hy Lạp và được các học giả mướn đi tìm kiếm các tác phẩm y học của Galen đang bị thất lạc. Vì mục đích này, Hunayn đã đi tới thành phố Damascus, tới miền Mesopotamia, các xứ Palestine, Ai Cập và Syria.
Về sau Hunayn được nhận làm phụ tá cho vị y sĩ của giáo chủ Ma’mun rồi từ đây phụ trách “Tòa Nhà Hiểu Biết” để trông coi tất cả các bản dịch thuật. Với sự trợ giúp của người con trai, người cháu và khoảng 90 đệ tử, học giả Hunayn và các người cộng tác đã sản xuất được các tác phẩm chuyển ngữ rất chính xác và quan trọng. Đầu tiên, các tác phẩm này được dịch sang tiếng Syriac là ngôn ngữ mà ông Hunayn rất giỏi, rồi sang tiếng Ả Rập để sau vài thế kỷ, được chuyển đổi sang tiếng La Tinh và truyền qua phương tây qua ngả Sicily và Tây Ban Nha.
Công trình của học giả Hunayn và các giáo sư đạo Hồi khác đã là nền móng của nhiều bộ môn khoa học hiện nay, đặc biệt là ngành Y Khoa. Những nhà trí thức này đã được vị giáo chủ đánh giá cao đến nỗi rằng theo chuyện kể, ông Hunayn được trả công bằng số vàng cân nặng ngang với số sách. Ngoài các công trình phiên dịch, học giả Hunayn còn viết ra nhiều cuốn sách thuộc bộ môn Nhãn Khoa (ophthalmology).
Vào thời Trung Cổ, phần lớn các y sĩ Ả Rập là các người gốc Ba Tư, trong số này nhân vật danh tiếng nhất là ông Razi, có tên La Tinh là Rhazes, đã viết ra hơn 200 cuốn sách từ bộ môn Y Khoa tới thuật Giả Kim (alchemy), Thiên Văn và Thần Học. Ông Razi sinh sống trong khoảng thời gian từ năm 865 tới năm 925. Nhiều người của thời đại này đã gọi ông là “vị Y Sĩ nhiều kinh nghiệm” và trong cách trị bệnh, ông Razi được coi như ngang hàng với Hippocrates. Ông Razi đã khuyên cách điều trị bệnh nhân bằng việc nghỉ ngơi, môi trường dưỡng bệnh phải sạch sẽ và phải giữ cho bệnh nhân được thoải mái. Dù cho không hề biết tới vi trùng, ông Razi đã đề cập tới các nguyên tắc vệ sinh. Trong công việc chọn lựa nơi xây dựng một bệnh viện cho thành phố Baghdad, ông Razi đã treo các miếng thịt sống tại nhiều nơi và đã lựa nơi nào có miếng thịt bị hư thối chậm nhất.
Trong bộ sách đồ sộ 100 cuốn viết về Y khoa, ông Razi đã biên tập nhiều hiểu biết từ các nhà lương y người Hy Lạp, Syria, Ba Tư, Ấn Độ và Ả Rập, và các tác phẩm này đã ảnh hưởng sâu rộng tới nền Y Khoa Tây Phương.
Một nhân vật cũng có danh tiếng như ông Razi tên là Ibn Sina, với tên La Tinh là Acevina, sống trong các năm từ 980 tới 1037. Người thời bấy giờ gọi ông là “Hoàng Tử của các nhà Triết Học” (the Prince of Philosophers) và cho tới ngày nay, ông Acevina vẫn còn được coi là một trong các bộ óc lớn lao của mọi thời đại. Người ta còn kể lại rằng khi lên 10 tuổi, ông Acevina thuộc lòng quyển kinh Koran, 18 tuổi trở thành y sĩ riêng của vua Hồi giáo tại Bukhara trong xứ Turkestan. Ông Acevina đã viết xong 170 cuốn sách về Y Khoa, Triết Học, Toán Học, Thiên Văn, Thơ Phú và Tôn Giáo. Tác phẩm danh tiếng nhất của ông tên là “Các Quy Tắc của Y Khoa” (Canon of Medicine), một bộ sách bách khoa đề cập tới mọi cách trị bệnh. Không một tác phẩm nào được nhiều người dùng tới hơn cuốn sách này bởi vì trong suốt chiều dài 6 thế kỷ, từ thế kỷ 12 tới thế kỷ 17, các trường đại học của châu Âu đã dùng bộ sách 5 cuốn này làm căn cứ. Ông Acevina còn nhận ra bản chất lây lan của bệnh lao phổi, ông cũng mô tả các bệnh ngoài da, bệnh xáo trộn tâm lý, bệnh tương tư và ông còn cho rằng các bệnh tật truyền đi do nước và đất.
Một học giả khác rất danh tiếng là vị y sĩ người Tây Ban Nha tên là Ibn Rushd, có tên viết theo tiếng La Tinh là Averroes. Học giả này đã viết nhiều sách về Y Khoa, Luật Khoa, Triết Học và Thiên Văn, và do tài năng đa diện, ông Averroes này đã vừa là y sĩ chính của vua Abu Yaqub Yusuf, nhà cai trị xứ Tây Ban Nha từ năm 1163 tới năm 1184, vừa là quan tòa tại hai thành phố Seville và Cordoba. Hơn nữa ông Averroes còn được người đời biết tới do là một trong những học giả quan trọng viết về nhà triết học Hy Lạp Aristotle, nhờ các bài khảo luận của ông liên quan tới các nhà tư tưởng Hy Lạp mà người phương Tây đã chú ý đến nền Triết Học này, và như vậy ông đã đóng góp vào công cuộc tạo nên các tư tưởng triết học của châu Âu.
Ảnh hưởng tới thế giới Tây Phương còn có một y sĩ Do Thái khác sinh ra tại Tây Ban Nha, là ông Ibn Maymun, có tên khác là Maimonides. Ông này đã viết sách Y Khoa, Thiên Văn, Thần Học, Triết Học và cũng là y sĩ triều đình của vua Saladin, vị vua Hồi giáo của hai xứ Ai Cập và Syria vào thế kỷ 12. Người đời sau ca tụng trí khôn ngoan và tầm hiểu rộng của ông do cuốn sách Triết Học “Hướng dẫn những người chưa xác tin” (Guide for the Perplexed). Đây là một khảo luận Triết Học làm hòa hợp các tư tưởng tôn giáo với các lời giảng dạy khoa học của Aristotle. Trong các tác phẩm viết về Y Khoa, học giả Maimonides đã bình luận về hai danh y Hippocrates và Galen, ngoài các nhận xét riêng của ông với phần lớn về vệ sinh cá nhân và chế độ ăn uống.
Mặc dù ngành giải phẫu bị coi là một phần nhỏ của Y Khoa, các y sĩ đạo Hồi cũng làm phát triển ngành này. Bị lãng quên cho tới thế kỷ 10, lương y Abulcasis sinh trưởng tại xứ Tây Ban Nha, đã viết sách giải phẫu căn cứ vào công trình của vị y sĩ Hy Lạp Paul of Aegina và trong các tác phẩm của ông có nhiều hình vẽ mô tả các dụng cụ và phương pháp giải phẫu.
Vào thời kỳ văn minh đạo Hồi, các y sĩ đã thực hiện được nhiều cuộc giải phẫu rất phức tạp đối với thời bấy giờ, gồm cả mổ óc, mổ mạch máu và phần bụng, cắt bỏ tay và chân bị bệnh. Danh y Acevina đã khuyên nên cắt đi các tế bào bị ung thư vào thời kỳ sơ khởi. Trong khi giải phẫu, các y sĩ đạo Hồi đã gây mê bệnh nhân bằng cách dùng thuốc phiện, đôi khi lại trộn với rượu để làm cho liều thuốc mạnh hơn. Ngoài ra chuyện còn kể rằng có nhà hóa học đã khám phá ra một chất gây mê khiến cho bệnh nhân bất tỉnh trong 7 ngày và vì sự nguy hiểm lớn lao này mà nhà hóa học kể trên đã mang theo bí mật khi qua đời.
Vào thời kỳ văn minh Hồi giáo, các y sĩ giải phẫu phải học lý thuyết Y Khoa của Galen, phải đậu kỳ thi về cơ thể học và học chuyên môn về một ngành. Một bác sĩ mắt ngoài tầm hiểu biết về con mắt, còn phải biết pha chế vài hợp chất trị bệnh đau mắt. Có lẽ do cát bụi nơi sa mạc nên các y sĩ đạo Hồi rất giỏi về cách chữa mắt trong thời Trung Cổ, họ đã viết ra nhiều sách Nhãn Khoa, phát minh ra cách cắt màng mắt (soft cataract) cũng như nhiều dụng cụ y khoa khác.
Việc chữa bệnh bằng thuốc men cũng rất tiến bộ. Nhiều y sĩ đạo Hồi biết điều chế các liều thuốc và tại thành phố Baghdad đã có các hiệu thuốc tây chế thuốc theo toa của y sĩ. Các loại thuốc này làm từ cây cỏ và sinh vật và cũng từ những khoáng chất như sulphate đồng dùng làm chất cầm máu và lành vết thương.
Người theo đạo Hồi thời đó đã coi thuốc men là nguy hiểm nên trong ngành thuốc có loại nhà thanh tra theo dõi việc bào chế các thuốc chữa bệnh, kiểm soát cả sự sạch sẽ của các chai lọ đựng thuốc. Dù cho dược sĩ không biết khi nào viên thanh tra tới kiểm soát nhưng vẫn có các vụ gian lận, vụ bán ra các thứ thuốc giả và đã có các hình phạt đối với những người phạm pháp.
Nhà cầm quyền đạo Hồi cũng đòi hỏi các y sĩ phải có bằng cấp. Vào năm 931, một công dân của thành phố Baghdad bị chết do nhầm thuốc, vì thế vua Hồi giáo Muqtadir đã ra lệnh cho lương y của triều đình Sinan Ibn Thabit kiểm tra tất cả y sĩ và 860 người hành nghề y khoa đã phải qua kỳ thi, dù cho vẫn có các sơ sót. Các y sĩ có giấy phép phải điều trị bệnh nhân tại bệnh viện giống như hiện nay. Qua thế kỷ 9, thành phố Baghdad xây dựng bệnh viện đầu tiên theo kiểu mẫu của bệnh viện trong trường y khoa Jundishapur và các địa phương khác cũng bắt chước, nhờ vậy đã có 34 bệnh viện trong thế giới Hồi giáo. Vài bệnh viện rất tiến bộ do có các chuyên ngành để chữa trị vài thứ bệnh đặc biệt, chẳng hạn chữa các người loạn trí, và các người bị thương nhẹ được cho về nhà sau khi chăm sóc tại bệnh viện. Bệnh viện của đạo Hồi còn có thư viện chứa nhiều sách y khoa. Vào thế kỷ 11, đã có các bệnh viện lưu động nhờ đoàn lạc đà đi tới các làng mạc và các nơi hẻo lánh. Khi tới một địa điểm chữa bệnh, các bác sĩ dựng lều rồi khám bệnh và cho thuốc. Vào thời kỳ có các bệnh dịch, các bệnh viện lưu động này rất hữu ích trong việc chữa trị.
2/ Ngành Hóa Học và các ngành khác.
Ngoài các đóng góp quan trọng trong ngành Y Khoa, các nhà khoa học Hồi giáo còn đặt nền móng cho ngành Hóa Học. Nhiều kỹ thuật và danh từ đã được phát minh từ môn giả kim (alchemy) của thời Trung Cổ. Nhà giả kim học danh tiếng nhất của vua Hồi giáo Harun, tên là Jabir Ibn Hayyan đã tin tưởng rằng mọi hợp chất có căn bản là thủy ngân và lưu huỳnh (sulphur) và ông này đã tốn nhiều công sức để tìm cách chế ra vàng và bạc. Ông Jabir đã khám phá ra nhiều kỹ thuật mới dùng vào việc tinh lọc kim loại, chế tạo phẩm nhuộm, dùng giấm để tạo nên acít acêtic và làm ra thủy tinh từ manganese dioxide. Ông ta cũng khảo sát nhiều hợp chất, biến nhiều chất thành tinh thể… và các danh từ mà ông Jabir sử dụng đã được truyền qua ngôn ngữ của châu Âu, chẳng hạn như alkali, alembic, antimony và aludel.
Sau khi ông Jabir qua đời, các nhà khoa học đạo Hồi khác cũng đóng góp vào các công cuộc nghiên cứu. Một trong những người này là y sĩ Razi nổi danh về y khoa và thuật giả kim. Trong số 12 cuốn sách viết về kỹ thuật sau này, tác phẩm được nhiều người nhắc nhở nhất là cuốn “Sách ghi các Bí Mật” (The Book of the Secret of Secretes) có chủ đích trình bày thành phần hóa học của nhiều khoáng chất. Ông Razi không chỉ mô tả các hóa chất và các dụng cụ cần thiết trong một phòng thí nghiệm hóa học chẳng hạn như các loại bình, đĩa thủy tinh (beakers, flasks, dishes) mà còn phân loại sự vật theo sinh vật (animal), khoáng vật (mineral), thảo mộc (vegetable)… và cách phân loại này ngày nay còn được dùng tới.
Ngoài các đóng góp vào các phạm vi Y Khoa và Hóa Học, các học giả đạo Hồi còn làm tiến bộ ngành Toán Học bằng cách dùng các quan niệm Toán của các xứ Ấn Độ và Hy Lạp, khai triển và tinh lọc những ý thức trừu tượng rồi sau này được truyền qua thế giới tây phương. Các toán gia đạo Hồi đã áp dụng 3 dụng cụ Toán căn bản là “số không” (zero), hệ thống thập phân và hệ thống “số Ả Rập” (Arabic numerals) nhờ đó mọi người có thể tính toán bằng các con số lớn hơn trước một cách tiện lợi hơn, hoặc bằng các chữ dùng làm biến số. Khởi đầu, các nhà toán học Ả Rập đã viết ra số không bằng một vòng tròn nhỏ với tên là “sifr” có nghĩa là “một vật trống” (an empty object). Khi dịch sang tiếng La Tinh, danh từ “sifr” trở nên “zephyrum” rồi sang tiếng Ý là “zero”. Về sau danh từ tiếng Anh “cipher” có nguồn gốc từ chữ “sifr”.
Các nhà toán học đạo Hồi cũng đã bỏ nhiều thời giờ nghiên cứu các bài toán phức tạp của các người Hy Lạp và Ấn Độ trước kia, kể cả các khung ô vuông con số (magic boxes) với cùng tổng số cộng theo đường ngang, đường dọc và đường chéo. Do áp dụng “số không”, các nhà toán học từ đó có thể sử dụng các quan niệm trừu tượng, diễn tả hiệu số của hai lượng bằng nhau và số không còn được dùng trong nhiều bộ môn khoa học khác như Vật Lý, Hóa Học, Thiên Văn.
Nhà toán học đạo Hồi danh tiếng nhất vào đầu thế kỷ 9 là ông Khwarizmi, rất bận tâm về môn Đại Số (Algebra), đã viết ra cuốn sách giáo khoa đầu tiên của môn học này, với tên sách là “Nghệ Thuật mang các ẩn số lại với nhau để hợp với một lượng đã biết” (The art of bringing together unknowns to match a known quantity = Hisab al-Jabr wa’l Mulqabala). Sách toán của ông Khwarizmi được dịch sang tiếng La Tinh vào thế kỷ 12, đã mở đường cho môn Đại Số vào châu Âu và cuốn sách này đã được dùng làm sách dạy Toán chính thức cho tới thế kỷ 16.
Các nhà toán học đạo Hồi còn làm phát triển và truyền qua châu Âu các bộ môn Toán phức tạp, gồm cả môn Hình Học Phẳng (plane geometry), Lượng Giác Phẳng và Lượng Giác Cầu (plane and spherical trigonometry) với các kiến thức căn bản phát xuất từ các nhà toán học Hy Lạp. Nhờ các khảo sát này, các nhà khoa học thời đó đã tính ra khoảng cách của các ngôi sao, tốc độ của một vật rơi tự do, diện tích của một thửa ruộng hay thể tích ngũ cốc chứa trong một vựa lúa.
Một ngành mà bên trong Toán Học đã giữ một vai trò rất quan trọng, đó là bộ môn Quang Học. Nhà vật lý danh tiếng của bộ môn này tên là Alhazen, người Ba Tư, sinh sống trong thế kỷ 10. Cho tới thời bấy giờ, người ta đều tin rằng con mắt phát ra các tia sáng chiếu tới đồ vật, khiến cho chúng ta nhìn rõ sự vật. Nhưng ông Alhazen đã dùng Hình Học để chứng minh rằng các tia sáng đã từ đồ vật phản chiếu tới con mắt.
Nhưng có lẽ áp dụng Toán Học quan trọng nhất của các nhà khoa học đạo Hồi là vào môn Thiên Văn. Từ thời còn sinh sống trong sa mạc, người theo đạo Hồi đã đặc biệt quan tâm tới các hành tinh và các ngôi sao bởi vì họ đã theo hướng các thiên thể này mà đi qua sa mạc. Họ đặt tên cho từng thiên thể trên bầu trời và các tên gọi này vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, chẳng hạn như “Algol”, “Betelgeuse” và “Vega”. Sự quan tâm về Thiên Văn thực sự bắt đầu khi vua đạo Hồi Harun al-Rashid ra lệnh dịch tác phẩm thiên văn “Almagest” của nhà thiên văn lừng danh người Hy Lạp Ptolemy.
Vào năm 830, một đài thiên văn được dựng lên tại thành phố Baghdad do vua Hồi giáo Ma’mun, cùng thời với “Tòa Nhà Hiểu Biết” (The House of Wisdom). Tại đài thiên văn này, các nhà khoa học đạo Hồi đã quan sát bầu trời, kiểm chứng các khám phá của Ptolemy và tìm ra các ngôi sao mới. Họ thường dùng kính trắc vị (astrolabe), một dụng cụ của người Hy Lạp trước kia, trên đó có vòng tròn chia theo độ để tính vị trí của các ngôi sao, chuyển động của các hành tinh và cho biết thời giờ, và họ đạt được các con số khá chính xác. Các nhà thiên văn đạo Hồi đã vẽ ra các bản đồ bầu trời và bản đồ địa dư, nhờ vậy họ tin tưởng rằng trái đất thì tròn, họ cũng tìm ra chu vi và đường kính của trái đất.
Trong khi các nhà thiên văn lập ra các bản đồ ngôi sao thì các học giả khác cũng viết ra danh sách các con đường, địa điểm các thành phố cùng với khoảng cách. Các báo cáo của các thương nhân đi xa đã mô tả xứ Trung Hoa và xứ Ấn Độ vào năm 851 và các du khách người Hồi đầu tiên tới nước Nga vào năm 921, đã gửi về các bản báo cáo gồm bên trong nhiều kinh nghiệm du lịch. Một trong những du khách này là nhà khoa học Biruni, đã đi tới xứ Ấn Độ vào thế kỷ 11 và đã mô tả nhiều chi tiết.
Trong các học giả đạo Hồi, nhân vật danh tiếng nhất là nhà Sử học Ibn Khaldun, người đầu tiên cứu xét xã hội một cách khoa học. Ông Khaldun không chỉ sưu tầm mọi biến cố của quá khứ như những sử gia đi trước, mà còn cố gắng tìm ra các định luật hữu lý để cắt nghĩa các cách hành sử của con người và nhờ vậy khiến cho Lịch Sử có được một chiều hướng mới. Trong cuốn lịch sử tổng hợp Muqaddima, Sử gia Khaldun đã trình bày lý thuyết đầu tiên về sự phát triển theo quan điểm sử học căn cứ vào các yếu tố như khí hậu, địa dư và kinh tế cũng như các ảnh hưởng từ luân lý và tinh thần tới vận mệnh của con người.
Giống như nhiều nhà tư tưởng đạo Hồi, ông Ibn Khaldun đã đi du lịch nhiều nơi, làm bí thư cho nhiều ông hoàng, làm đại sứ tại nhiều triều đình ở Tây Ban Nha và châu Phi, vì vậy ông đã phối hợp tầm hiểu rộng của mình vào các hoạt động chính trị, đã đưa ra các nhận xét sâu sắc do quan sát các xáo trộn chính trị. Khi nhìn thế giới Hồi giáo đi xuống vào thế kỷ 14, học giả Ibn Khaldun đã nêu lên những vấn đề quan trọng khiến cho các xã hội trở nên mạnh lên hay yếu đi. Học giả này đã nói rõ sự suy tàn của xã hội sau 2 hay 3 thế hệ ích kỷ và ham thích xa hoa, và tác phẩm Muqaddima đã hàm chứa các hiểu thấu không những của thời đại tác giả mà còn của các thời đại về sau.
Nền văn minh và văn hóa của đạo Hồi đã suy tàn do cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ đánh chiếm thành Baghdad vào năm 1258, do các nhân vật Hồi giáo chính thống (orthodox Muslims) trong các thế kỷ về sau đã dùng quyền lực và uy tín để chống lại các cải cách và tiến bộ.
NĂM NIỀM TIN CỦA ĐẠO HỒI
Vào thế kỷ thứ 7, đạo Hồi trở nên một tôn giáo mới, khác với đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa không những do quan niệm về Thượng Đế mà còn về sự kết hợp cả chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội với tôn giáo, khiến cho đạo Hồi có những nét đặc thù, rất thích hợp với xã hội của các xứ Ả Rập.
Qua nhiều thế kỷ, hình thái chính trị và kinh tế của đạo Hồi đã bị biến đổi nhưng hình thái tôn giáo vẫn được giữ nguyên. Hệ thống các niền tin tôn giáo của đạo Hồi gồm các bổn phận đạo đức và các giá trị luân lý, được đặt căn bản trên 5 niềm tin là: đức tin, các việc cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn và đi hành hương. Đây là các điều bắt buộc đối với người theo đạo Hồi nhờ đó đạo Hồi đã có được một hình thức duy nhất, đã đứng vững và được duy trì lâu dài.
1/ Niềm tin thứ nhất.
Niềm tin thứ nhất là lòng tin tưởng tuyệt đối vào Allah và vào Nhà Tiên Tri. Một người được coi là đã theo đạo Hồi khi tuyên bố về đức tin trước một tín đồ Hồi giáo khác, gồm câu xác nhận: “Không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah và Mohammed là Sứ Đồ của Ngài”. Đây là câu xác nhận đức tin ngắn gọn nhất trong lịch sử, lại có vần điệu rất âm nhạc nếu được đọc theo tiếng Ả Rập: “La ilaha illa Allah, Muhammad rasul Allah”. Đức tin vào câu xác nhận này còn bao gồm 3 điều tin tưởng khác: niền tin vào Kinh Koran là Lời của Thượng Đế, niền tin vào các thiên thần như là những nhân vật làm theo ý muốn của Thượng Đế và niềm tin vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng dành cho mọi người. Rồi sau khi đã xác nhận đức tin, người tín đồ không có cách nào xoay trở khác và hình phạt dành cho kẻ bỏ đạo là sự chết.
Việc xác nhận niềm tin trong đạo Hồi thật là đơn giản, không đòi hỏi phải làm một lễ nghi, dù một phép bí tích như lễ rửa tội, lễ ban thánh thể cũng như theo các khóa học về giáo lý. Đạo Hồi cũng không tổ chức một hệ thống tu sĩ mặc dù vẫn có một đội ngũ lớn lao các học giả gọi là “ulama = các nhà trí thức” (the learned), những vị này là những nhà lãnh đạo trí thức và tinh thần của cộng đồng Hồi giáo, giữ vai trò quan trọng là lập ra và diễn đạt các luật lệ Hồi giáo. Qua nhiều thế kỷ, đạo Hồi vẫn giữ được tính đơn giản, ít ra là về bề ngoài bằng cách không dùng các lễ nghi phức tạp, không ưa sự hào nhoáng phô trương nhưng bên trong lại có rất nhiều vấn đề thần học (theological) phức tạp khiến cho các học giả đã tranh cãi nhau, chẳng hạn như về định mệnh.
Người theo Hồi giáo lúc đầu chỉ có một giáo điều duy nhất không được phép tranh luận: niềm tin vào Allah duy nhất, vừa siêu việt, vừa vạn năng, là vị sáng tạo ra thế giới và là vị Cha không có ai là Con, không chia xẻ quyền uy với ai và nếu nghĩ khác điều này là sẽ phạm tội “shirk”, tội gán cho Thượng Đế có các người cộng tác khác. Allah như vậy là Đấng Tối Thượng, có mọi quyền năng và con người chỉ có một lòng tuân theo Lời của Ngài (His Word). Kinh Koran cũng xác nhận rằng ông Abraham không phải là người Do Thái, cũng không phải là một người Thiên Chúa giáo, ông ta là một con người thẳng thắn, đã thần phục Allah và những người nào gần Abraham nhất được coi là đi theo Nhà Tiên Tri này.
Thượng Đế có tính siêu việt nhưng lại ở không xa con người. Kinh Koran đã mô tả “Thượng Đế ở gần con người hơn là mạch máu nơi cổ” và đã có nhiều bài thơ ca ngợi lòng đại lượng, thương xót của Thượng Đế đối với con người và nhiều người đã gọi Allah là Đấng Từ Bi, Đấng Đại Lượng và còn rất nhiều mỹ từ khác. Sau niềm tin vào Thượng Đế, tới niềm tin vào các nhà Tiên Tri và các lời giảng dạy của các vị này. Theo đạo Hồi, trước Mohammed chỉ có 5 nhà Tiên Tri: Adam, Noah, Abraham, Moses và Jesus. Mỗi vị Sứ Đồ này đã từng mang đến cho con người Lời của Thượng Đế nhưng con người đã lẩn tránh các lời giảng dạy đó, vì vậy một vị Tiên Tri mới khác là Mohammed lại được phái xuống thế gian để chỉ dẫn cho con người đi tới sự cứu rỗi. Nhà Tiên Tri Mohammed vì thế có một nhiệm vụ đặc biệt, đây là vị Tiên Tri cuối cùng và các lời nói của Mohammed sẽ dẫn dắt con người tới Ngày Phán Xét sau này.
Vì Kinh Koran là lời nói của Thượng Đế nên người theo đạo Hồi tin rằng Kinh này không thể sai nhầm được. Việc đọc kinh là một phần trong việc thờ phượng và nhiều người Hồi đã nhớ thuộc lòng quyển Kinh, chứa vào khoảng 78,000 từ (words) và dày như cuốn Kinh Tân Ước.
Sau khi Mohammed chết vào năm 632, nhiều người bạn của nhà Tiên Tri đã nghĩ tới việc ghi chép lại Kinh Koran vì số người nhớ thuộc lòng đã bị giảm dần vì chết trận, vì sự tản mạn trong cách nhớ thuộc lòng. Người kế tiếp Mohammed để lãnh đạo Hồi Giáo lúc bấy giờ là Abu Bakr, đã ra lệnh thu gom các tài liệu ghi chép về kinh Koran, về sự khải huyền để soạn ra một văn bản duy nhất. Vào thời kỳ đó, chữ Ả Rập còn ở trong hình thức đơn giản, thiếu dấu phát âm và thiếu nguyên âm vì thế đã xẩy ra sự tranh luận về cách đọc một số từ, một số câu kinh. Tuy nhiên, cuốn kinh đã được hiệu đính nhờ sự cương quyết của Uthman, người kế tiếp thứ ba của Mohammed, một trong những người đầu tiên cải sang đạo Hồi và cũng là con rể, đã kết hôn với 2 người con gái của nhà Tiên Tri. Uthman đã lập ra một ủy ban cứu xét để viết ra một bản Thánh Kinh, các văn bản chép khác đều bị đốt bỏ. Chính vì cách làm này mà một số học giả ngày nay tin rằng còn có các phần khác ghi lại các lời nói của nhà Tiên Tri trong khi lại có các phần ghi chép bị nghi ngờ.
Vì không ai dám quả quyết thứ tự các chương trong Kinh Koran, nên các chương này, hay suras, được xếp đặt theo độ dài. Các chương được gọi tên tùy theo sự kiện xẩy ra hay do một từ đặc biệt có bên trong. Sau chương mở đầu ca ngợi Thượng Đế là “Chúa Tể của Vũ Trụ”, tới chương dài nhất có tên là “con bò cái” (the cow) vì việc tế thần bằng loại bò này, nói tới luật lệ và các điều răn dạy, đề cập tới căn bản của tổ chức và các điều lệ của đời sống Hồi giáo, các nhiệm vụ tôn giáo của người theo đạo, việc ly dị và chiến tranh.
Việc tin tưởng vào các thiên thần cũng được coi là quan trọng. Đây là các sứ đồ của Thượng Đế, có nhiệm vụ thi hành các công việc như giữ cửa Thiên Đường và Hỏa Ngục, làm trung gian giữa Thượng Đế và con người. Kinh Koran chỉ đề cập tới vài thiên thần như Gabriel và Michael. Gabriel đã truyền các mặc khải cho Mohammed và Michael thực hiện các lệnh của Thượng Đế như làm ra gió và mưa. Ngoài ra còn có thiên thần Israfil thổi tiếng kèn vào Ngày Phán Xét và thiên thần Isra’il hay Thần Chết, lấy đi hơi thở cuối cùng của người hấp hối.
Một niềm tin tưởng khác liên quan tới ngày phán xét. Chỉ có Thượng Đế mới biết khi nào thế gian này bị chấm dứt và vào ngày đó, một tiếng kèn được thổi lên, các người chết từ các nấm mồ sẽ được xét xử về các hành động của họ lúc còn nơi trần thế. Những người tốt sẽ được trao cho “cuốn sách” ghi chép các hành động của họ, đặt vào tay phải, còn kẻ xấu có cuốn sách đặt vào tay trái. Kinh Koran cũng mô tả các cách hành hạ dành cho kẻ có tội, những người này biết rằng vào lúc này, quyền hành của họ đã hết, tài sản cũng không làm lợi được gì nữa và họ nghe thấy Thượng Đế ra lệnh cho thiên thần: “Bắt lấy hắn và trói hắn lại,/ rồi đốt hắn trong lửa,/ và sợi xích 70 thước buộc người hắn,/ vì hắn đã không tin vào Thượng Đế,/ và không cho kẻ đói khát đó đồ ăn gì cả”.
Kinh Koran cũng mô tả cảnh cực lạc dành cho người ở trên Thiên Đường. Đây là mảnh vườn Hạnh Phúc nơi đó các kẻ giàu đức tin ngả mình trên ngai có cẩn ngọc, chung quanh lại có các kẻ hầu trẻ đẹp, họ uống thứ nước tinh khiết bằng ly pha lê và ăn thực phẩm được chọn lựa nhất để đền bù cho các hành động tốt của họ. Thiên Đường là nơi cây cối xanh tươi, đặc biệt hấp dẫn so với miền sa mạc khô cằn của xứ Ả Rập trơ trụi.
2/ Niềm tin thứ hai và thứ ba.
Niềm tin thứ hai của đạo Hồi là “cầu nguyện”. Đây là bổn phận quan trọng nhất của người theo đạo Hồi và không được miễn trừ cho bất cứ ai, dù thuộc về dòng giống hay đẳng cấp xã hội đặc biệt nào. Nhờ cầu nguyện, tín đồ đã cảm ơn Thượng Đế về lẽ sống của mình và về những gì mình có được. Có hai loại cầu nguyện: “du’a” là cách cầu nguyện riêng bên trong và “salat” là cách cầu nguyện theo nghi thức. “Du’a” là cách một người có thể liên lạc với Thượng Đế, để cầu xin một đặc ân gì, đây là cách cầu nguyện đáng khen ngợi, còn “salat” là hình thức tôn thờ được định rõ cho mọi tín đồ. Một người theo Hồi giáo phải cầu nguyện một ngày 5 lần. Lần cầu nguyện thứ nhất bắt đầu không lâu sau rạng đông, khi tín đồ được người gọi đi lễ (muezzin) đánh thức, thúc giục rằng “cầu nguyện còn hơn giấc ngủ”. Bốn lần cầu nguyện còn lại được thực hiện ngay sau giờ Ngọ, vào buổi sau trưa, ngay sau khi mặt trời lặn và vào ban đêm. Vào các thời điểm này, người gọi đi lễ leo lên một cái tháp cao (minaret) kêu gọi các tin đồ đi cầu nguyện: “Thượng Đế thì tối thượng,/ Tôi xác nhận rằng không có thần thánh nào ngoài Allah,/ Tôi xác nhận rằng Mohammed là Sứ Đồ của Allah,/Hãy đến để cầu nguyện,/ Hãy đến để được giải thoát,/ Thượng Đế thì vĩ đại nhất,/ không có thần thánh nào khác ngoài Allah”.
Mỗi ngày, tín đồ Hồi giáo phải làm công việc rửa sạch nếu không, các công tác thờ phượng sẽ không có giá trị. Các công việc rửa sạch này làm sạch con người, cũng như các lời cầu nguyện làm sạch linh hồn nhờ đó, con người đi lễ trở nên trong sạch cả về thể xác lẫn tinh thần trước Thượng Đế. Việc rửa sạch phải làm trước lần cầu nguyện đầu tiên. Người đi lễ phải gội đầu, rửa mặt, rửa bàn tay và cánh tay cho tới cùi chỏ, rửa chân và cổ chân. Loại nước lã thường được dùng cho công việc này và khi không có sẵn nước, có thể dùng cát thay thế. Việc rửa sạch cũng phải làm khi tín đồ không theo được buổi lễ một cách đúng đắn, chẳng hạn như ngủ gật hay khi cơ thể và quần áo va chạm với những thứ không trong sạch, chẳng hạn như rượu, máu và nước tiểu, và trong trường hợp này, chỗ tiếp xúc cần được tẩy giặt cho sạch sẽ. Nếu sự dơ bẩn lớn hơn, chẳng hạn như giao hợp, người tín đồ phải rửa sạch tóc và toàn thân.
Trước khi bắt đầu cầu nguyện, một tín đồ phải bỏ nón, cởi giầy và làm một số động tác ấn định được gọi là “rak’a” trong khi đó miệng đọc nhỏ hay đọc thầm các lời cầu nguyện. Vào các giờ cầu nguyện khác, lại có các “rak’a” khác nhau và một tín đồ có thể làm thêm một số “rak’a” để xin thêm ân sủng của Thượng Đế. Trước khi cầu nguyện, mọi tín đồ phải tĩnh tâm, xác nhận số “rak’a” sẽ làm, nếu không có sự tuyên bố ý định này, các lời cầu nguyện sẽ không có giá trị.
Khi bắt đầu cầu nguyện, tín đồ phải đứng thẳng người, hai tay dơ quá đầu, lòng bàn tay hướng về phía trước và nói: “Allahu Akbar !” (Allah là Đấng Tối Thượng). Câu này được lặp lại nhiều lần nhưng lần đầu tiên được coi là quan trọng nhất vì câu nói đó đã tách biệt đời sống tầm thường của tín đồ để cho người đó hướng toàn diện về Thượng Đế. Rồi người tín đồ phải sụp lạy, miệng đọc Kinh Koran. Công việc cuối cùng là quay sang trái và phải, mỗi lần đều nói câu “Hòa Bình và Lòng Thương của Thượng Đế tới với bạn” và theo niềm tin thông thường, lúc này hai bên vai đã có hai thiên thần chứng giám cho lòng thành của người tín đồ.
Việc cầu nguyện có thể thực hiện tại nhiều nơi: ở nhà, tại ngoài trời, nơi làm việc, và Kinh Koran còn khuyến khích cầu nguyện ngay cả trên bãi chiến trường: một toán quân canh gác trong khi toán quân kia cầu nguyện rồi đổi lại. Cầu nguyện có thể làm một mình hay cùng với nhiều người khác. Tín đồ Hồi giáo thường tập họp với nhau vào trưa ngày Thứ Sáu và buổi cầu nguyện tập thể này được hướng dẫn bởi người chủ lễ gọi là “imam”, sau đó là buổi thuyết giảng bởi người “imam” này và người này ca ngợi Thượng Đế, nhà Tiên Tri Mohammed cũng như đề cập tới một số vấn đề công ích.
Việc cầu nguyện tập thể thường được các tín đồ Hồi giáo thực hiện nơi đền thờ (mosque) có lối xây cất lúc đầu theo cách xếp đặt giống như căn nhà của Nhà Tiên Tri Mohammed với các túp lều của các bà vợ xếp quanh một sân rộng là nơi Nhà Tiên Tri rao giảng. Về phía bắc của sân là các cây gồi, từ nơi này làm ra một mái che ngang, kết bằng lá cây và bùn để che nắng. Đền thờ Hồi giáo vì theo kiểu mẫu đó, nên cũng có một sân rộng ở giữa, có hồ nước để các tín đồ rửa mặt và chân tay, 3 phía là mái che còn phía thứ tư chính là gian thờ. Vì mọi tín đồ phải hưởng về Đền Kaaba ở Mecca nên gian thờ, được gọi là “mihrab”, được quay về hướng đó và được trang hoàng và có một bục giảng dùng cho buổi lễ trưa Thứ Sáu.
Đền thờ Hồi giáo không chỉ là một nơi thờ phượng mà còn là một nơi giáo dục. Các học giả thường ngồi nơi bóng mát, dựa lưng vào cột và các học sinh vây chung quanh. Đền thờ Hồi giáo El Azhar tại thành phố Cairo, Ai Cập, vừa là một trung tâm tôn giáo, vừa là một trường Đại Học có tầm vóc quan trọng ngang với các đại học của châu Âu. Đền thờ cũng là tòa án, nơi các vị quan tòa nghe kiện cáo và xét xử. Đây còn là nơi dừng chân của các kẻ lữ hành, họ uống nước, rửa mặt và nằm ngủ nơi bóng mát trước khi lên đường trong chuyến viễn du. Ngày nay, mọi ngôi đền thờ Hồi giáo thì độc lập, thanh toán các phí tổn nhờ vào ngân quỹ để lại của người sáng lập nhưng cũng nhờ vào loại tiền cúng tặng của tín đồ. Ngôi đền được điều hành bởi một người quản đốc, phụ tá có các “imam” hay các người chủ lễ, ngoài ra còn có các người giữ cửa, người chuyên môn chở nước, các người phục dịch khác
Bố thí là niềm tin thứ ba của giáo lý đạo Hồi. Một người Hồi giáo chỉ có thể tẩy sạch tài sản của mình bằng cách cho đi một phần những gì kiếm được. Việc bố thí có hai loại: “sadaga” là việc bố thí tự nguyện và “zakat” là cách bắt buộc. “Zakat” không phải là một loại thuế, mà là một thứ “cho Thượng Đế vay”, được chính quyền thu nhận để dùng vào các nhu cầu xã hội như giúp đỡ các người nghèo, các góa phụ, các trẻ em mồ côi, giúp các kẻ nô lệ mua lấy tự do hay trang bị cho các quân sĩ tình nguyện trong các cuộc thánh chiến. Một tín đồ có thể bố thí theo loại “zakat” bằng hiện vật như tiền bạc, kim khí quý, hoa màu thu hoạch được, súc vật chăn nuôi được tùy theo cách kinh doanh của người có của.
3/ Niềm tin thứ tư và thứ năm.
Niềm tin thứ tư là nhịn ăn (fasting). Kinh Koran đã xác nhận: “Hỡi các kẻ có niềm tin, việc nhịn ăn đã được dành cho các người”. Mùa nhịn ăn là tháng Ramadan, một tháng âm lịch xoay vòng qua các năm. Mỗi tín đồ Hồi giáo có bổn phận phải nhịn ăn, ngoại trừ các trẻ thơ, người bệnh và các kẻ đang trên đường đi xa. Họ phải nhịn ăn trong những giờ có ánh sáng mặt trời và duy trì công việc này trong suốt tháng Ramadan.
Vào tháng Ramadan, trước khi trời sáng, tiếng trống đánh, tiếng gọi cửa, tiếng hô hào trên tháp cao kêu gọi mọi tín đồ dùng bữa ăn cuối cùng, rồi kể từ khi “phân biệt được sợi chỉ màu đen với sợi chỉ màu trắng”, người theo đạo Hồi không được ăn gì nữa, uống gì nữa, dù là một ly nước hay một điếu thuốc lá, và phải kiêng cữ liên hệ tình dục. Trong các giờ này, các công việc vẫn được tiếp tục làm nhưng với tinh thần từ tốn và giới hạn.
Mặc dù các giới hạn, các quy luật phải theo, người Hồi giáo rất ưa thích tháng Ramadan vì việc nhịn ăn không phải là cách hành hạ thể xác và Nhà Tiên Tri Mohammed đã không chủ trương khắc kỷ thái quá. Sự nhịn ăn đã được người Hồi giáo coi là một cách giống như cầu nguyện để tới gần Thượng Đế hơn, cách nhắc nhở tín đồ rằng ngoài đồ ăn, thức uống, còn có một thứ gì cao cả hơn, đó là đời sống tinh thần. Do nhịn ăn, người Hồi giáo học được kỷ luật đối với cơ thể của mình, hiểu được nỗi thống khổ của kẻ nghèo khó và do đó mới biết mở rộng tấm lòng nhân đạo. Ngoài ra, Ramadan còn là tháng chuộc tội, chuộc lại tất cả tội lỗi trong suốt một năm.
Việc nhịn ăn vào ban ngày cũng mang tới niềm vui lớn vào ban tối, khi người đi gọi lễ báo tin hết giờ cấm ẩm thực và sau này, tiếng người được thay bằng tiếng súng đại bác. Lúc này tinh thần hồ hởi tới với mọi người, đặc biệt là trẻ em. Mọi người trong gia đình vào giờ này cùng nhau thưởng thức vài trái trà là, nhấm nháp ly nước giải khát làm từ trái mận khô (dried apricots) với tên gọi là “gamar-al-deen” (mặt trăng của tôn giáo). Sau món khai vị đó, toàn gia quây quần vui hưởng bữa “iftar” (điểm tâm buổi chiều). Sau bữa ăn này, một số người đi ngủ còn các kẻ khác chạy ùa ra chợ, ra đường phố: sinh hoạt mua bán trở nên nhộn nhịp, các trẻ em chạy qua, chạy lại với các lồng đèn trên tay và đôi khi chúng xin tiền người lớn để mua nến (đèn cầy) thắp sáng. Vào lúc này, bên trong các đền thờ Hồi giáo, đèn được thắp sáng trưng, các tín đồ ngồi nghe thuyết giảng về ý nghĩa của tháng linh thiêng này, còn bên ngoài đền thờ là đủ loại giải trí : gánh xiếc với các trò vui, các màn ảo thuật, các nhà thi sĩ đọc thơ, các người kể chuyện cho các đám đông đứng bu chung quanh. Ba ngày cuối cùng của tháng Ramadan là lễ hội lớn. Mọi người mặc quần áo mới, chào nhau, ôm nhau khi gặp mặt. Trong gia đình, các món ăn đặc biệt được dọn ra tùy theo lợi tức của gia chủ và tất cả mọi người cùng nhau ăn mừng sự gần gũi với Thượng Đế.
Niềm tin thứ năm và cũng là niềm tin cuối cùng, rất quan trọng là việc đi hành hương tới thành phố Mecca. Đây là một phong tục truyền thống của người Ả Rập khi xưa và đã được đạo Hồi sử dụng. Một người Hồi giáo trong suốt cuộc đời phải cố gắng làm sao có được một lần đi tới Thánh Địa là thành phố mà khi trước Nhà Tiên Tri đã được mặc khải. Mặc dù một tín đồ có thể tới Mecca bất cứ vào lúc nào trong năm nhưng nên đi vào tháng “Dhu’l Hijja”, hai tháng sau Ramadan.
Việc hành hương “Hajj” vào tháng đặc biệt kể trên đã cho các người Hồi giáo một sức mạnh tinh thần. Đây là cơ hội tụ họp về nơi Đất Thánh của họ hàng trăm ngàn người từ những miền xa xôi nhất, họ mặc y phục giống hệt nhau, làm các lễ nghi tôn giáo như nhau, điều này nhắc nhở rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Đây cũng là cơ hội để các tín đồ xa gần trao đổi các ý tưởng khác nhau, giúp vào việc đoàn kết và làm vững mạnh đế quốc tôn giáo. Những người ra đi rồi trở về sau cuộc hành hương cũng làm rộn ràng các làng mạc, các thành phố mà họ sinh sống và do các cảm xúc sâu đậm của cuộc hành hương mà mỗi người đều cố gắng để dành tiền, cố gắng làm ăn vất vả để có tiền tham dự một chuyến hành hương sôi nổi.
Khi các tín đồ Hồi giáo đã tới ngoại ô thành phố Mecca, họ rửa sạch từ đầu tới chân và kể từ nay là thời gian phải chăm sóc linh hồn hơn thể xác: họ không được cạo râu, cắt móng tay cũng như giao hợp. Các tín đồ thay quần áo thường mặc, người nam quấn bằng hai tấm vải trắng còn người nữ mặc y phục trắng dài, bình dị. Việc thay đổi y phục này có kèm theo các lời cầu nguyện và đọc kinh Talbiya, để nói rõ rằng họ sẵn sàng làm theo lệnh của Thượng Đế. Khi từ ngoài thành phố Mecca tiến vào bên trong, người hành hương tới hôn Tảng Đá Đen rồi đi vòng quanh ngôi đền linh thiêng 7 vòng, miệng đọc kinh ca ngợi Allah. Sau đó họ chạy 7 lần giữa 2 ngọn đồi nhỏ ở gần đó. Đây cũng là một phong tục cổ xưa.
Lễ nghi quan trọng nhất của cuộc hành hương được cử hành tại Arafa là thung lũng cách Mecca 9 dặm, vào ngày thứ 9 của tháng Dhu’l Hijja. Vào ngày trọng đại này, các tín đồ kẻ đi chân, người cưỡi ngựa hay lạc đà, tụ tập trên một ngọn đồi nhỏ vào một buổi chiều rồi hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn tín đồ cùng nhau cầu nguyện trước Thượng Đế và lắng nghe lời thuyết giảng của các vị chức sắc. Đây là quãng thời gian đã gây được niềm tin sâu sắc, đã tác dụng đến nội tâm của mọi tín đồ Hồi giáo.
Sau khi mặt trời lặn, đoàn hành hương trở về hướng thành phố Mecca, nghỉ đêm tại Muzdalifa, một ngôi làng nhỏ không xa Arafa và vào ngày hôm sau, họ đi tới Mina ở giữa đường Medina và Arafa, tại nơi này họ ném đá vào các cột trụ tượng trưng cho ma quỷ và các cám dỗ. Cao điểm của cuộc hành hương Hajj lại được đánh dấu bằng việc cắt tiết cừu, dê và lạc đà. Các người sợ máu nhờ các đồ tể khác làm giúp. Họ ăn thịt các con vật đã được tế thần, phần thịt dư được chia cho các kẻ nghèo. Lễ giết súc vật để cúng tế này được làm vào ngày thứ 10 của tháng Dhu’l Hijja và được coi là một “lễ hội lớn” trong thế giới Hồi giáo. Sau đó các tín đồ trao đổi quà tặng và mặc quần áo mới sau khi đã cắt tóc, cạo râu. Nghi lễ cuối cùng là việc các tín đồ trở lại thành phố Mecca, đi 7 vòng chung quanh ngôi đền Kaaba và chạy nhiều lần giữa hai ngọn đồi nhỏ ở gần đó để kết thúc cuộc hành hương. Các tín đồ đã thực hiện cuộc hành trình nghi lễ này được mang tước hiệu “Hadji”, một danh dự dành cho những người tin tưởng vào Allah và cũng là một ân phước dùng vào Ngày Phán Xét sau này.
4/ Đạo Hồi và Xã Hội Ả Rập.
Trong nền văn minh Tây Phương, luật lệ và tôn giáo được tách biệt thì nơi đạo Hồi, hai phạm vi kể trên đã lẫn vào nhau, chi phối hành động của con người không những đối với nhau mà còn đối với Thượng Đế.
Đạo Hồi khởi đầu từ căn cứ vào xã hội của người du mục, của người Ả Rập, là một tôn giáo nhất thần (monotheistic) giống như đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, nhưng nhà Tiên Tri Mohammed lại cho rằng người Do Thái đã làm sai đi lời của Thượng Đế trong thánh kinh của họ, trong khi Thượng Đế hay Allah chỉ có một, duy nhất và để sửa chữa các khuyết điểm, Thượng Đế đã chỉ dẫn người Ả Rập qua Sứ Đồ là nhà Tiên Tri Mohammed.
Đạo Hồi không chủ trương sự tách biệt giữa tôn giáo và chính quyền vì tại một xã hội cần phải chiến đấu để sống còn, chiến đấu chống các kẻ thù bên ngoài và sự phân hóa bên trong, vì thế các nghi thức cầu nguyện tập thể đã mang hình thái kỷ luật của quân đội và Kinh Koran đã bao gồm cả luật về tôn giáo lẫn luật dân sự, đã xác định về các cách quản trị xã hội, về các quyền lợi như quyền tư hữu, thừa kế, giá thú, ly dị, việc trừng phạt kẻ cắp và kẻ ngoại tình, việc đối xử với kẻ nô lệ và trẻ mồ côi, các điều lệ về thương mại, luật lệ về ăn uống, giải trí và hối lộ. Ngoài các luật thành văn (written law) còn có các luật tập tục (customary law) thay đổi tùy theo địa phương nên thường đi lệch khỏi các lời giảng dạy của nhà Tiên Tri.
Đạo Hồi đã không có một giới tu sĩ nhưng lại làm phát triển những nhà luật học và học giả về các luật lệ xác định trong Kinh Koran để xét xử các vấn đề xã hội. Hai giới này cho tới ngày nay vẫn giữ vai trò chỉ đạo.
Năm niềm tin của đạo Hồi gồm lòng tin tưởng, các bổn phận cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn và đi hành hương, là các phần của một hệ thống giáo luật phức tạp, với tên gọi là “Shiri ‘a” hay con đường rõ ràng phải đi theo. “Shiri ‘a” có 4 nguồn gốc: Kinh Koran, các tập tục đã có từ trước, các chấp thuận của nhiều học giả Hồi giáo và Sách Hadith ghi lại những gì nhà Tiên Tri Mohammed đã làm và đã nói.
Vì các hành sử của một tín đồ phần lớn được căn cứ vào “Sách Hadith” nên đã có kẻ đặt ra các lời nói ngụy tạo của Mohammed và người ta còn kể lại rằng ba thế kỷ sau khi Mohammed qua đời, đã có 600 ngàn câu nói của nhà Tiên Tri được lưu truyền, khiến cho không biết câu nào là thật, là giả. Vì vậy một số học giả Hồi giáo đã phải thu thập, xem xét và ấn định độ chính xác, trong khi chính cuốn “Sách Hadith” cũng được viết ra căn cứ vào lời kể lại của những người thân cận với nhà Tiên Tri.
Các hành sử của tín đồ Hồi giáo còn được xếp vào một trong 5 loại: loại bắt buộc như đọc kinh và bố thí zakat, loại được ca ngợi (commended acts) như bố thí cho kẻ ăn xin, trả tự do cho kẻ nô lệ, loại vô thưởng vô phạt như làm một chuyến du lịch, loại không được chấp nhận (disapproved acts) như ăn hành, tỏi khiến cho hôi miệng và cuối cùng là loại bị cấm đoán, chẳng hạn như tội giết người. Ngoài ra luân lý căn bản của đạo Hồi, chẳng hạn như sự đòi hỏi các tín đồ phải trong sạch, kiên nhẫn và tử tế đối với các người cần cứu giúp, thì cũng giống như những điều răn dạy trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, và đặc biệt là Kinh Cựu Ước (Old Testament).
Về một số phạm vi khác, đạo Hồi và đạo Thiên Chúa lại khác nhau, nhất là về phương diện chiến tranh. Trong khi đạo Thiên Chúa chủ trương tha thứ cho những kẻ trước kia đã đàn áp mình hay các kẻ chiến bại, thì nhà Tiên Tri Mohammed lại thúc giục các tín đồ phải chiến đấu cho Hồi giáo và “jihad” (cuộc thánh chiến = holy war) đã gần có cơ hội trở nên niềm tin thứ sáu.
Về thực phẩm, đạo Hồi theo các chính sách giống như đạo Do Thái và Kinh Koran đã cấm ăn thịt heo, máu và thịt của các con vật bị tự nhiên mà chết, bị đánh tới chết, bị đâm bằng sừng, bị rớt xuống chết hay bị các thú vật khác đã ăn một phần, trong khi đó tín đồ Hồi giáo được phép ăn cá, ăn loại thịt do săn bằng chó săn hay thịt của một số con vật được chấp nhận như cừu, dê và lạc đà. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, tín đồ được ăn mọi thứ để duy trì đời sống.
Đạo Hồi đối với rượu rất nghiêm ngặt, hơn tất cả các tôn giáo khác. Kinh Koran cấm hẳn kẻ đang say sưa mà đi cầu nguyện và việc uống rượu Khamr bị coi như vi phạm luật tôn giáo. Dù thế, giới quý tộc Hồi giáo và các thi sĩ vẫn phạm luật do uống nhiều rượu chát.
Sự khác biệt của đạo Hồi so với các đạo giáo khác còn ở cách đối xử với phụ nữ. Kinh Koran đã dạy rằng “người nam phải bảo vệ người nữ” và trong nhiều trường hợp, đạo Hồi đã cải thiện tình trạng của phụ nữ hơn các thời đại trước. Tại xứ Ả Rập vào các thế kỷ trước kia, người đàn ông có thể lấy bao nhiêu vợ tùy ý, đối xử tốt xấu ra sao tùy ý và có thể ly dị vợ theo ý muốn mà không cần phải cho biết lý do, bằng cách nói hai lần câu “mày bị đuổi” (thou art dismissed) nhưng sau đó, người đàn ông sẽ không có quyền cưới lại người vợ này vì đã nóng giận, và người đàn bà tuy không có quyền đứng xin ly dị, nhưng trong một số điều kiện, có thể được tự do, do từ chối một số tài sản mà người chồng dành cho mình. Đạo Hồi khi ra đời, đã không cấm đoán hẳn được sự đa thê nhưng đã giới hạn người đàn ông không có quyền lấy hơn 4 vợ, lại phải đối xử tử tế và bình đẳng với người vợ của mình. Trong đám cưới, tiền của do nhà trai đưa lại sẽ thuộc quyền của cha mẹ cô gái hay người giám hộ và tài sản này sẽ không bị hoàn trả nếu có ly dị. Việc gian dâm cũng bị giáo luật lên án nặng nề và Kinh Koran đã xác định hình phạt như sau: “với kẻ gian dâm nam và nữ, hãy đánh chúng bằng một trăm roi”.
Đạo Hồi đã cung cấp cho các tín đồ một lối sống bao gồm cả tinh thần lẫn xã hội, chính trị và kinh tế, khiến cho họ sống hòa hợp với nhau và cũng cung cấp cho họ một sức mạnh mà thế lực và ảnh hưởng đã làm biến đổi thế giới trong nhiều thế kỷ.
Kể từ Kỷ Nguyên Hồi Giáo hay Hegira, đã có 72 giáo phái đạo Hồi, nhưng hai giáo phái lâu đời nhất và quan trọng nhất là Shi ‘ites và Sunnites. Tín đồ theo giáo phái Shi ‘ites tin tưởng rằng người kế tục Mohammed là Ali, con rể của nhà Tiên Tri, còn giáo phái Sunnites lại chủ trương chính thống (orthodox). Ngoài ra còn có một số giáo phái tuy chỉ xuất hiện cách nay gần một thế kỷ nhưng cũng rất quan trọng và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong thế giới Hồi giáo, là giáo phái Wahabites. Đây là một loại “tin lành” của đạo Hồi, muốn phục hưng đạo Hồi để trở về sự thuần chất nguyên thủy. Người Ba Tư thuộc giáo phái Shi ‘ites, người Thổ Nhĩ Kỳ và Ả Rập thuộc Sunnites còn thuộc về Wahabites là cư dân của miền Nejd, miền trung tâm Arabia. Tuy chia rẽ thành các giáo phái song các người Hồi rất dung thứ cho nhau và họ cũng đã không dùng tới “pháp đình tôn giáo” (Inquisition), đã không dùng “lưỡi kiếm và lửa hỏa thiêu” để ép buộc các người khác giáo phái phải theo chủ thuyết của mình.
Các lời răn dạy trong Kinh Koran thì cũng tốt lành như của các Thánh Thư khác, gồm: lòng bác ái, tính hiếu khách, các hành động lương thiện, sự tiết chế dục vọng, việc giữ lời hứa, sự kính trọng cha mẹ, việc bảo vệ trẻ em và những người góa bụa, tình thương yêu người hàng xóm và lời khuyên răn kẻ gian tà quay về con đường ngay thẳng. Luân lý của Kinh Koran như vậy cũng giống như luân lý trong Sách Phúc Âm (The Gospel).
Việc chuyển đổi những niềm tin căn bản thành một nền văn minh chính thức, đầy đủ của Hồi giáo là do công lao của nhiều thế hệ các học giả, các nhà thần học, các nhà luật học (jurists). Chính nhờ đạo Hồi mà các xứ Ả Rập đã đoàn kết lại và phát triển.
Nguồn: khamphalichsu.com