TRẦN KHÂM
Tên húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung1 đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân.
Kỷ Mão, [Thiệu Bảo] năm thứ 1, 1279, Tống Tường Hưng năm thứ 2, Nguyễn Chí Nguyên năm thứ 16 . Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu, đại xá.
Chiêm Thành sai Chế Năng, Tra Diệp sang cống. Bọn Chế Năng xin ở lại làm nội thần, vua không nhận.
Lập bà phi Trần thị làm hoàng hậu.
Năm 1279, nhà Nguyên có chiến thắng quyết định trước nhà Tống trong Trận Yamen , đánh dấu sự kết thúc của triều đại nhà Tống và sự kiểm soát hoàn toàn của Hốt Tất Liệt đối với Trung Quốc. Kết quả là Hốt Tất Liệt bắt đầu vạch trần âm mưu thôn tính các nước phía nam như Đại Việt hay Champa. Nhận thức được tình hình, Thánh Tông và Nhân Tông bắt đầu chuẩn bị cho nhà Trần cho cuộc chiến rõ ràng và không thể tránh khỏi, đồng thời cố gắng giữ một chính sách mềm dẻo với nhà Nguyên. Đầu tiên, Thái tử Chiêu Văn Trần Nhật Duật được cử làm sứ mệnh bình định cuộc khởi nghĩa do Trịnh Giác Mật Lãnh đạo ở Đà Giang bằng con đường ngoại giao để giữ yên ổn định đất nước trước chiến tranh. Với vốn hiểu biết về ngôn ngữ và văn hóa của người dân tộc thiểu số, Trần Nhật Duật đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình vào năm 1278, nhờ đó, nhà Trần rảnh tay đối phó với hiểm họa từ phương Bắc. Tháng 10 năm 1282, Thượng hoàng Trần Thánh Tông và Thượng hoàng Trần Nhân Tông tập hợp tất cả các thành viên trong hoàng tộc và các quan trong triều đình ở Bình Than để bàn bạc về cuộc chiến không thể tránh khỏi. Hai vị tướng nổi bật của quân đội Đại Việt được chú ý trong dịp này là Trần Khánh Dư , nguyên chỉ huy quân đội nhưng bị tước hết tước vị sau tội và Trần Quốc Toản, chỉ một hầu tước 16 tuổi. Năm 1283, Hưng Đạo hoàng tử Trần Quốc Tuấn được cử làm tổng chỉ huy (Quốc công tiết chế) của quân đội Đại Việt, Hưu hoàng và Hoàng đế bắt đầu tổ chức các cuộc tập trận với các tướng lĩnh và quân đội của họ.
Vào tháng 12 năm 1284, cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai của nhà Nguyên được mở ra dưới sự chỉ huy của hoàng tử Toghan của Hốt Tất Liệt . Đại Việt bị tấn công theo hai hướng, chủ quyền Toghan tiến hành bộ binh xâm nhập từ biên giới phía bắc trong khi thủy quân của Yuan dưới sự chỉ huy của tướng Sogetu tiến từ biên giới phía nam qua lãnh thổ của Champa . Khi bắt đầu cuộc chiến, Thánh Tông và Nhân Tông phải hạ lệnh rút quân để tránh áp lực của quân Nguyên khi Hoàng tử Chiêu Minh Trần Quang Khải chỉ huy quân đội cố gắng ngăn chặn hạm đội của Sogetu ở tỉnh Nghệ An.. Trong thời gian này, có một số quan chức cấp cao và thành viên hoàng tộc nhà Trần đào thoát sang phe nhà Nguyên, trong đó có em ruột của Thánh Tông là Hoàng tử Chiêu Quốc Trần Ích Tắc và Trần Kiện, con trai của Thái tử Tĩnh Quốc Trần Quốc Khang . Vì sự an toàn của Thánh Tông và sự rút lui của Nhân Tông, công chúa An Tư được dâng lên làm hiện tại và nghi binh cho hoàng tử Toghan trong khi Hầu tước Bảo Nghĩa Trần Bình Trọng bị bắt và sau đó bị giết trong trận Đà Mạc để bảo vệ hai hoàng đế. Ở biên giới phía Nam, Trần Quang Khải cũng phải rút lui trước sức ép của thủy quân Sogetu và sự đào tẩu của quan Tổng đốc Nghệ An. Bất chấp những khúc mắc lặp đi lặp lại, hoàng tộc và triều đình nhà Trần vẫn giữ được sự hòa thuận, cương quyết nhờ những quyết sách và hành động chính xác của các vị lãnh đạo Thánh Tông, Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải.
Tình thế nguy cấp của nhà Trần bắt đầu thay đổi sau chiến thắng trong trận Hàm Tử vào tháng 4 năm 1285, nơi các đạo quân do Trần Nhật Duật , Hoàng tử Chiêu Thành, Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái chỉ huy cuối cùng đã đánh bại được hạm đội của Đô đốc Sogetu. . Vào ngày 10 tháng 5 âm lịch năm 1285, Trần Quang Khải đã đánh trận quyết định ở Chương Dương , nơi thủy quân của Sogetu gần như bị tiêu diệt và do đó cán cân chiến trường chắc chắn nghiêng về nhà Trần. 10 ngày sau khi Sogetu bị giết và Thượng hoàng Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Thánh Tông trở về kinh đô Thăng Long vào ngày 6 tháng 6 âm lịch, năm 1285.
Tháng 3 năm 1287, nhà Nguyên phát động cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba. [8] Khác với lần tấn công thứ hai, lần này Tổng tư lệnh Hoàng tử Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn khẳng định với Hoàng đế rằng quân đội Đại Việt có thể dễ dàng phá vỡ chiến dịch quân sự của quân Nguyên. Thật vậy, cuộc xâm lược này đã kết thúc một năm sau đó bởi một thất bại thảm hại của thủy quân Nguyên trong trận Bạch Đằng vào ngày 8 tháng 3 âm lịch, năm 1288. Ngoài Trần Quốc Tuấn, các danh tướng khác của nhà Trần trong thời gian này là Hoàng tử Nhân Huệ Trần Khánh Dư , người đã tiêu diệt đoàn xe hậu cần của thủy quân Nguyên trong trận Vân Đồn hay tướng Phạm Ngũ Lão phục kích quân đang rút lui của hoàng tử Toghan.
Trong việc khen thưởng cho các tướng lĩnh và quan lại nhà Trần sau chiến thắng, Thánh Tông và Nhân Tông cũng nhắc nhở họ cẩn trọng với biên giới phía Bắc. Về những người đào tẩu sang phe Nguyên, Hoàng đế ban hành lệnh đổi họ của mọi thành viên đào tẩu trong tộc Trần thành họ Mai, ví dụ như Trần Kiện được đổi tên là Mai Kiện, là hoàng tử đào tẩu duy nhất của tộc Trần. Trần Ích Tắc được miễn lệnh này nhưng ông được sử sách triều Trần gọi bằng cái tên "Ả Trần" ("người đàn bà họ Trần") nghĩa là Trần Ích Tắc là "người phụ nữ hèn nhát".
Hưu hoàng Trần Thánh Tông mất vào ngày 25 tháng 5 âm lịch, năm 1290 ở tuổi 50. Với tư cách là người cai trị duy nhất của Đại Việt, Trần Nhân Tông đã ra lệnh nới lỏng chính sách thuế khóa, giải tỏa dân nghèo và hoãn binh. chống lại Ai Lao để đất nước phục hồi sau hai cuộc chiến tranh ác liệt, một số nạn đói và thiên tai.
Ngày 3 tháng 2 âm lịch năm 1292, Nhân Tông phong con thứ nhất là Trần Thuyên làm Thái tử nhà Trần và cuối cùng quyết định truyền ngôi cho con vào ngày 3 tháng 3 âm lịch, 1293.
Hình ảnh Thượng hoàng Nhân Tông trong tác phẩm Trúc Xâm đại sĩ xuất sơn đồ. Nguồn: Sưu tập
Truyền ngôi cho con, Trần Nhân Tông dành nhiều thời gian hơn cho việc thức tỉnh tâm linh. Năm 1295, ông được phong chức như Phật giáo tu sĩ. Năm 1299, Ngài đến núi Yên Tử ở Quảng Ninh ngày nay, nơi Ngài phát nguyện tu theo 10 pháp tu khổ hạnh của một học trò Phật . Ông cũng thành lập một tu viện, giảng dạy về các nguyên tắc Phật giáo và thu nhận một lượng đáng kể đệ tử. Người ta cho rằng ông đã thành lập Trúc Lâm , thiền phái Phật giáo bản địa duy nhất ở Việt Nam . Không chỉ định cư ở Yên Tử, ông còn đi khắp đất nước để giảng dạy các phương pháp Thiền cho các nhà sư và khuyến khích thần dân của mình tuân theo thuyết Thập thiện ( Daśakuśalakarmāṇi).
Năm 1301, ông đến thăm Champa , và sống trong chín tháng tại triều đình của Jaya Sinhavarman III .
Năm 1306, ông gả con gái là Công chúa Huyền Trân, kết hôn với vua Champa là Jaya Simhavarman III , để đổi lấy hai tỉnh của người Chăm.
Tổng hợp: SGT Group