340 lượt xem

Trương Công Giai

Trương Công Giai – Tài đức vẹn toàn

Trương Công Giai – tài đức vẹn toàn.


Thượng thư Trương Công Giai.

20 tuổi đỗ tiến sĩ

Trương Công Giai sinh ngày 19/11/1665 tại sở Thiên Kiện (nay là xã Thanh Tâm, Thanh Liêm, Hà Nam); đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu (1685), niên hiệu Chính Hòa thứ sáu, đời Lê Hy Tông khi 20 tuổi; tên ông đứng thứ nhất và là một trong 13 người đỗ Tiến sĩ dưới 22 tuổi của nước ta; làm quan đến Công bộ Thượng thư kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, tước Lỵ Quận công, khi mất được tặng hàm Thiếu bảo.

Gia phả dòng họ Trương cho biết, họ Trương lập nghiệp ở vùng đất Thanh Liêm, Hà Nam từ khoảng thế kỷ thứ 15. Khởi tổ của dòng họ Trương là cụ Trương Công Tào, vốn là người Bắc, sang nước Nam lập nghiệp. Vùng đất cụ Trương Công Tào khai phá ban đầu gọi là sở Thiên Kiện, sau mới đổi thành xã.

Tương truyền vùng đất này là nơi tụ hội linh khí của trời đất, là đất “địa linh nhân kiệt”, do đó, cụ Trương Công Tào đã định cư tại đây. Sinh thời, cụ thường giữ đạo, làm điều nghĩa, tích công, giúp của và nhân đức, để lại cho con cháu muôn đời. Từ cụ khởi tổ Trương Công Tào đến Trương Công Giai tổng cộng là 9 đời. Tất cả đều làm ăn sinh sống ở Thiên Kiện và dần dần trở thành một dòng họ lớn trong vùng.

Ông nội Trương Công Giai là Trương Chí Tín (1588 – 1673) làm quan tri huyện Thanh Liêm, kiêm thêm nghề thuốc. Cụ là người nhân hậu, tài cao đức rộng, tính tình nhã nhặn, chất phác, có lòng hiếu thiện, được tiếng khen là người hiền, tinh ở pháp môn, thông ở thiền giáo, trừ tà và giỏi xem tướng số…

Đương thời nhiều người chịu ơn cụ. Cụ chỉ lo việc yên dân, không cầu danh lợi, trị bệnh theo kinh sách chính thống của nhà y, cốt ở việc chữa bệnh cho dân. Những người nghèo khó thì giúp họ là chính.

Thân phụ Trương Công Giai là Trương Chí Tường, tiếp tục nối nghiệp nghề thuốc của cha. Cụ là người thông minh, sáng dạ, ngay từ nhỏ đã nắm vững các loại thuốc cứu người và nhanh chóng trở thành một danh y. Nghề y của cụ đã cứu giúp dân trong vùng, tiếng khắp gần xa.

Đứng đầu cung vua phủ chúa

Theo các giai thoại còn lưu truyền đến ngày nay, Trương Công Giai lúc nhỏ được gọi là thần đồng bởi học tài, thông kinh thấu chữ, ứng xử tài hoa, lại được người cha là một danh y nổi tiếng dạy bảo, cho học hành chu tất. Vốn là cậu bé hiền lành thông minh nhạy cảm nên không cứ thượng quan hay thứ dân, ai hỏi gì đều lễ phép, đáp lời trôi chảy khiến ai cũng dễ hiểu và tin yêu.

Trương Công Giai ra đời trong hoàn cảnh nhà Lê đã giành lại ngôi báu từ nhà Mạc và nhập triều chính lúc vua Lê Hy Tông lên ngôi được 10 năm, chúa Trịnh đã tại vị được 3 năm. Những cuộc giao tranh giữa họ Trịnh và họ Mạc đã đến lúc kết thúc.

Ban đầu Trương Công Giai được vua Lê Hy Tông giao cho chức Bồi tụng Hình bộ Thượng thư (giúp việc điều phối hoạt động chung của cung vua và phủ chúa).

Ở chức này một năm, ông đã được chúa Trịnh Căn khen ngợi tấu với vua tăng tiến lên chức Phụng quản Tiệp cơ (đứng đầu cung vua, phủ chúa điều hành lực lượng quân cơ), tước Nhập thị kinh diên (võ quan có công lao với triều đình), chức quyền lễ bội sự (quyền giải quyết mọi việc sự vụ của bộ Lễ), chức Thượng thư kiêm Quốc Tử Giám tế tửu (Hiệu trưởng Quốc Tử Giám), tước lỵ Quận công (người ngoài tộc có nhiều vinh hạnh lớn tương đương với chức quốc công của người nội tộc).

Trương Công Giai – tài đức vẹn toàn – Làm quan để giúp vua, giúp đời

 Trương Công Giai – tài đức vẹn toàn

 
Nhà bia tưởng niệm Thượng thư Trương Công Giai. Nguồn: Sưu tập

Quan tiết bất đáo

Sách Lịch triều tạp kỹ còn ghi: Tháng 3 năm Đinh Hợi (1707) phong tự khanh Trương Công Giai làm Công bộ Hữu Thị lang (chức thứ ba sau Thượng thư và Tả Thị lang, chuyên lo các ngành công thương nghiệp của đất nước).

Tháng 3 năm Tân Mão (1711), Trương Công Giai giữ chức Phó đô Ngự sử sau đó được tiến ngay lên chức đô Ngự sử (quyền cao nhất của Ngự sử đài chuyên lo can gián vua hoặc luận tội bá quan văn võ trong triều).

Năm Mậu Tuất (1718), Đô Ngự sử Trương Công Giai được cử làm chi cống cử nhập kỳ thi diên bội tung, Thượng thư giám cẩm Sơn Nam (chủ khảo thi Hương chọn cử nhân, duyệt đề và chấm thi…), chức Thượng trụ quốc thượng trật tướng công (là chức quan Đại đô đốc hàm Phiêu kỵ thượng tướng quân, quản lý việc giữ an ninh cho quốc gia). Tháng 6 năm Canh Tý (1720), ông được phong chức Thượng thư bộ Hình…

Trong suốt 43 năm làm quan, Trương Công Giai là người liêm khiết, trong sáng, tận tụy, luôn nêu cao quan điểm làm quan để giúp vua, giúp đời, khiến trong triều ngoài nội đều khen ngợi, phục vụ quốc gia thời thịnh trị dưới đời vua Lê Hy Tông và Lê Dụ Tông, đời chúa Trịnh Căn và Trịnh Cương, duy trì được công bằng lẽ phải, để lại nền nếp nền tảng cho hậu thế.

Quan điểm sống và làm quan xuyên suốt trong cuộc đời ông, thể hiện trong bức đại tự thờ bốn chữ: “Quan tiết bất đáo” có nghĩa là quan thanh liêm và khí tiết, không nhận của gian phi. Đó là lời răn dạy cho tất cả những người làm quan quyền chức. Ông còn để lại những áng thơ văn, câu đối, thật sâu sắc và ý nghĩa.

Lấy nghiêm khắc giữ nếp nhà

Trương Công Giai làm quan, phục vụ đất nước trải qua nhiều trọng trách khác nhau, từ Tự khanh, Đô ngự sử đến Công bộ Thượng thư, Hình bộ Thượng thư, được phong tặng tước lỵ Quận công, khi mất được tặng hàm Thiếu bảo.

Đặc biệt, ông có thời gian dài kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám (hiệu trưởng), đã có nhiều đóng góp cho Quốc Tử Giám, cho nền khoa cử giáo dục Việt Nam trong giai đoạn Lê – Trịnh cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.

Trương Công Giai xứng đáng là một vị quan, một người thầy cho thế hệ sau phấn đấu, học tập, là một nhà khoa bảng tiêu biểu của họ Trương Việt Nam.

Con trai trưởng của Trương Công Giai là Triều liệt Đại phu Quan Tiến lộc Trương Luận Xuyên đã chép về người cha của mình như sau: “Cụ có phong thái đoan trang, kỳ vĩ, thần thái ung dung, mặt tựa tô son, đứng ngồi đĩnh đạc, ôn hòa từ ái, cần kiệm, thanh cao. Cụ lúc nhỏ được gọi là Thần đồng, khi lớn dốc lòng theo đạo Nho. Cụ làm quan trong sạch, cần cù. Lấy lòng hiếu đễ thờ cha mẹ, lấy nghiêm khắc giữ nếp nhà. Thờ vua tận tụy, trong triều ngoài nội đều giữ tiếng khen. Thực đáng người hiền, tiếng thơm lưu truyền hậu thế”.

Trương Công Giai mất ngày mồng 8 tháng 2 năm Mậu Thân (1728) thọ 63 tuổi, thi hài được ướp quàn tại viện Thiên Thanh. Sau 100 ngày mới đưa về quê cho dân làng và gia tộc kính viếng. Bảy ngày sau mới đưa lên an táng tại lưng núi A Hồ (Thiên Hồ – Trà Xuyên – Thanh Liêm). Tên chữ của ông là Đoan Lượng nên khi mất được vua ban tên thụy là Hiên Hoát Tiên Sinh và được truy phong hàm Thiếu bảo.

Mộ phần ông đặt ở cuối dải Chanh Chè trên núi Trà Lĩnh uy nghiêm. Đây là vùng thắng cảnh nhìn thấy núi sông trong thế long chầu hổ phục. Đằng kia có núi Huyền Vũ đột khởi, mạch từ Tốt Khê, Sơn Nga dẫn về giữa trập trùng núi với những đồi thông xanh thẳm, đến Trà Châu thì hình thành bức trướng Lưỡng Rực hóa thành mạch lớn chuyển nhập vào tận ấp quê.

Trương Công Giai – Tài đức vẹn toàn –Tấm gương rực sáng 

 
Hình minh họa. Nguồn: Sưu tập

Hai triều vua sáng danh vinh hiển

Khi Trương Công Giai mất, vua Lê Dụ Tông đã viết câu đối về ông như sau: Trung thần hiếu tử thông minh thuở cầu thi sinh đắc sinh, trường sinh khả ái – Tiến sĩ thượng thư tài chí bất nghi tử nhi tử kỳ tử giã thương.

Có nghĩa là: Trung thần hiếu tử thông minh thuở cầu thi sinh đã sinh mong trường sinh mến mãi – Tiến sĩ thượng thư tài trí, chưa nên tử đã tử, nay bất tử thương ôi!

Chúa Trịnh Cương viết: Kỷ miền sơn hải phụng trì an đắc vị trung thần hiếu tử – Nhất đáng tang thương để cục nan tầm suy nhục hoàn y quan.

Có nghĩa là: Bao năm thờ phụng núi sông, được yên tĩnh trung thần hiếu tử – Một sớm tang thương buồn não khó bình tâm thay áo đổi y.

Hồ Phi Tích (Lại bộ tả thị lang thời vua Lê Hy Tông) viết bài thơ nhan đề Trương Thượng thư có nội dung như sau: Sáu mươi ba tuổi đón lên tiên – Bóng hạc tùng mây thoả ước nguyền – Phúc đức tôn hiền nên phúc hậu – Quang vinh trọng nghĩa hoá ân tuyền – Hai triều vua sáng danh vinh hiển – Muôn thuở trời xanh chí lan truyền – Chiêm ngưỡng dung nhan trà lính ấy – Vườn xưa, người đấy hỡi linh thiêng!

Triều Khải Định năm thứ 9, ngày 25/7/1924 đã ban sắc phong cho Trương Công Giai để thờ phụng tại đình làng Trà Châu, Thanh Tâm, Thanh Liêm, Hà Nam.

Đầu năm 2004, tỉnh Hà Nam xuất bản cuốn sách Thượng thư tiến sĩ Trương Công Giai của Trần Tuấn Đạt. Tỉnh còn giao cho huyện Thanh Liêm và xã Thanh Tâm cấp đất xây dựng nhà bia tưởng niệm nhân vật lịch sử văn hoá Thượng thư Tiến sĩ Trương Công Giai tại thôn Kho Núi, xã Thanh Tâm.

Ngày 2 tháng Chạp năm 2006, lễ cắt băng khánh thành nhà bia tưởng niệm đã được tổ chức chu đáo long trọng với sự tham dự của đông đảo con cháu dòng họ Trương từ khắp nơi về hội tụ.

Đây không chỉ là nơi thờ phụng tổ tiên của con cháu dòng họ Trương từ khắp mọi miền đất nước tìm về và tự hào ngưỡng mộ mà còn là địa chỉ truyền thống văn hoá lịch sử trên quê hương Hà Nam.

Tấm gương rực sáng

Có thể nói, trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, họ Trương là dòng họ hiếu học, có nhiều đóng góp cho đất nước. Qua thống kê bước đầu cho thấy, họ Trương đã đóng góp cho đất nước hơn hai mươi vị đại khoa dưới các triều đại quân chủ.

Số lượng không nhiều nhưng các vị đại khoa họ Trương đạt được hầu hết các học vị khoa bảng từ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa đến Phó bảng.

Nhiều vị đại khoa đã nắm giữ những cương vị quan trọng nhất trong triều đình như Tể tướng, Thượng thư, có nhiều vị là những danh nhân văn hóa, nhà sử học, nhà thơ, nhà chính trị, ngoại giao… để lại cho dân tộc nhiều công trình văn hóa tiêu biểu, trong đó có tiến sĩ Trương Công Giai.

Ông là một trong ba tiến sĩ trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến và cũng là một trong những vị Tế tửu Quốc Tử Giám, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước.

Trương Công Giai có 43 năm trong quan trường và có tới một nửa thời gian giữ các trọng trách của triều đình. Ông đã nhận thức được vị trí quan trọng của người làm quan trong xã hội. Đồng thời đã nêu cao quan điểm cùng cách hành xử của mình về người làm quan đối với triều đình, với xã hội và với dân chúng.

Chính vì vậy mà người đương thời đã tôn vinh Trương Công Giai là người tài đức vẹn toàn, tấm gương rực sáng tiêu biểu cho con cháu đời đời thế thế noi theo. Còn các nhà nghiên cứu thời này khẳng định, ông là một vị quan thanh liêm, cương trực, suốt đời vì nước vì dân.

Nguồn: Khoahocdoisong.vn