260 lượt xem

Tư tưởng Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam - Kỳ 2

3. Ảnh hưởng của phật giáo đến xã hội Việt Nam

3.1.Phật giáo là một tôn giáo gần gũi và dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian người Việt. Ở miền bắc đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì Phật hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên (trong tâm thức dân gian Việt cổ, Phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc, người khác tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên) mà con người cũng cần để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì Phật hay quan âm cũng trở thành một vị thần, phật điện cũng trở thành thần điện, tính tâm linh Ấn Độ nhường bước cho tính tình Việt Nam. Hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý.

Chính vì gần gũi và dễ hòa hợp nên tín ngưỡng đạo phật và tín ngưỡng thờ thần của người Việt có nhiều nét giống nhau song không phải là một.

Bụt giống Phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những người bị áp bức bóc lột. Nhưng Bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay để cứu vớt. Còn Phật gần gũi, công bằng với tất cả chúng sinh vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có một người dân bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Với phật, không ai tiểu nhân,cũng chẳng có ai quân tử. Cũng không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét, thù hận. Đó cũng là điều phù hợp với nếp nghĩ của người Việt.

Phật kêu gọi sự tự giác không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế .


Chăc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiểu thế nào là bản ngã, người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn lao. Phải chăng, đây là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn bó được với quần chúng.

Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai.


Cô Tấm trong cổ tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Tâm lý người Việt Nam ta phần nhiều cũng quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.


Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng, và có một sự gắn bó sâu sa nhất định mà không một sự thẩm định, lựa chọn nào. Dân gian xưa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy, với các sinh hoạt của họ tức là họ đã “lộ” cái ý đồng hay không đồng. Có thể nói rằng, văn hoá Việt Nam hoá phật hơn là phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đại thừa thì vẫn phải nhập với tín ngưỡng bản địa. để biến Man Nương thành Phật Mẫu, Ỷ Lan thành Quan Âm mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.

Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè.



Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá làng. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Chả thế mà bao nhiêu câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.

Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.

Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Đạo phật có thể mất đi như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.

Trong mấy chục năm lại đây Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.

3.2.Chúng ta cũng có thể thấy rằng tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Ở các trường phổ thông, tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”, “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ viên gạch hồng”… Ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy.Chúng ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sa đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết cần làm ngay.

3.3. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết với sự xâm nhập của nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề xây dựng hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận thức được về cơ bản giữa mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi, một bên thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một mô hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và hoàn thiện cả xã hội.

3.4. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục... Đạo đức nhà Phật mất dần giá trị cũng chính thái độ yếu thế này, với nhà Phật những nhu cầu về thể xác thì bị coi là trần tục, kém đạo đức, nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm trên càng không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.

3.5. Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày nay trong số những người đi chùa, nhiều người không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin Phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện - ác. Như vậy, mục đích đến chùa của nột số người dân đã sai lầm so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.

3.6.Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu rất đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những người năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm mở rộng sáng tạo. Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn. 

4. Kết luận


Qua việc tìm hiểu vấn đề chúng ta phần nào hiểu thêm được tư tưởng của Phật giáo. Phật giáo là để độ sinh chứ không phải độ tử, giúp cho chúng ta thức tỉnh, bỏ ác làm lành, vượt qua mọi khổ đau phiền muộn ngay ở trong hiện tại để có một cuộc sống hạnh phúc , an lạc cho dù còn nhiều thiếu thốn về vật chất hay bất cứ một yếu tố khách quan nào đưa lại qua đó cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam. 

Dù còn những hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ. Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức, nhân cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.

Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng, kế thừa truyền thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.


Nguồn: vanhoanghean.com.vn