235 lượt xem

Câu chuyện đầy xúc động ngày đức Phật nhập Niết Bàn - Kỳ 3

Sau khi Ðức Phật viên tịch rồi, trời chưa sáng, nên 2 Ðại đức Anuruddha và Ananda thay phiên nhau thuyết về pháp động tâm, làm cho ai ai cũng chán nản về các pháp hữu vi là pháp sanh diệt chia lìa, đau khổ triền miên, và tự nguyện tinh tấn thực hành y theo giáo pháp của Ðức Thế Tôn di truyền, để mong có ngày ra khỏi vòng cương tỏa của luật vô thường, siêu sanh về cõi an vui tuyệt đối.

Sáng ngày Ðại đức Anuruddha sai Đại đức Ananda vào đền cho vua Malla hay tin Ðức Phật đã nhập Niết Bàn rồi. Ðến nơi thấy vua và triều thần hội nhau bàn tán về ngày cuối cùng của vị Chánh đẳng Chánh giác, quên lo tới việc triều chánh. Ðại đức Ananda vừa báo tin Phật đã diệt độ, thì cả vua chúa quần thần đều chan hòa giọt lệ, mến tiếc và ca tụng ân đức của đấng trọn lành.

Ðức vua liền ra chiếu chỉ cho quần thần và các lớp dân chúng trong xứ Kusinàrà đem bông hoa, nước thơm và nhạc lễ đến rừng Salàvana, và dạy nội ngày ấy cất rạp cho xong để thiết đại lễ cúng dường Phật Tổ.

Công việc tẩn liệm thi hài Ðức Thế Tôn, vua làm y theo lời chỉ bảo của Ðại đức Ananda: lấy 1.000 cây lụa trắng bao bọc thi hài, ướp đủ các thứ nước thơm hảo hạng, để vào hòm vàng. Toàn cả xứ Kusinàrà thiết lễ long trọng cúng dường Ðức Phật. Cuộc lễ kéo dài đến 6 ngày đêm. Qua ngày thứ 7 là ngày đức vua định hành lễ hỏa táng. Theo chương trình thì hòm vàng của Ðức Thế Tôn sẽ được thỉnh đi chung quanh thành Kusinàrà một vòng, rồi thỉnh vào thành nội làm lễ hỏa táng. Ðúng giờ phát hành, 8 lực sĩ của vua, sắc phục nghiêm trang vào động quan. Tám vị lực sĩ ấy chuyển cả sức lực khiên hòm lên mà hòm vẫn nằm y một chỗ không lay động. Vua Malla ngạc nhiên đến hỏi Ðại đức Anuruddha, thì Ngài dạy rằng: Các vị Trời muốn cho Bệ hạ thỉnh thi hài Ðức Thế Tôn qua hướng Bắc ra cửa thành hướng Ðông, thẳng đến tháp Makutabandhana Cetiya ở phía Ðông thành Kusinàrà và làm lễ hỏa táng tại đó.

Vua buộc lòng phải làm theo ý muốn của chư thiên. Chừng ấy 8 vị lực sĩ thỉnh hòm ra đi nhẹ nhàng. Trong lúc ấy các vị Trời ca tụng và cúng dường Ðức Phật bằng cách rải bông mạng thù từ không trung xuống cùng khắp xứ Kusinàrà, mùi thơm bát ngát. Trên không trung và dưới đất chư thiên, vua và dân chúng ca tụng và trổi âm nhạc rền trời. Ðến tháp Makutobandhana Cetiya, để hòm vàng lên hỏa đài, 4 vị quốc sư của Vua từ 4 hướng cung kính đem lửa mồi châm vào 4 góc hỏa đài. Lửa không cháy, Vua Malla đến bạch hỏi Ðại đức Anuruddha, thì Ngài dạy rằng: Hàng Thiên chúng muốn để chậm chậm một chút, cho Ðại đức Maha Ca diếp sắp về gần tới. Cuộc lễ hỏa táng cũng phải ngưng lại.

Nói về Ðại đức Maha Ca diếp từ xứ Pava khởi hành qua Kusinàrà với 500 đồ đệ cho kịp gặp Ðức Thế Tôn, vì đường xa nên chậm trễ. Ði gần tới nơi, nhưng vì mệt mỏi, nên Ngài cùng chư đệ tử tạm dừng nghỉ bước dưới cội cây. Ngài chợt thấy một thầy tu theo đạo lõa thể đi qua, trên tay có cầm một cái bông mạng thù, Ngài liền kêu hỏi thăm: Này thầy ôi! Thầy có hay tin Ðức Samôn Cù Ðàm ra thể nào chăng? Vị đạo sĩ ấy trả lời: Ông Samôn Cù Ðàm đã nhập Niết Bàn 7 ngày rồi. Bông mạng thù này tôi lượm tại chỗ ông Samôn Cù Ðàm nhập diệt đây.

Vừa nghe tin ấy, các thầy Tỳ Khưu chưa dứt tình dục ré lên khóc thảm thiết. Trong đoàn lại có một vị Tỳ Khưu Subhadda, là người bán thế xuất gia mới thốt rằng: Các thầy khóc lóc mà làm chi! Từ nay chúng ta được hoàn toàn giải thoát khỏi ông Samôn Cù Ðàm rồi. Ông cứ dạy điều này phải, điều kia quấy; nếu ta làm quấy thì tội lỗi. Bằng hành theo, rất khó khăn cho ta. Từ nay ta muốn làm gì thì tùy ý, không còn ai cản nữa.

(Ðây là cái mầm làm cho Phật giáo suy đồi. Ðức Thế Tôn mới nhập diệt có 7 ngày, mà đã có hạng người đê tiện muốn phá hoại Phật pháp, bằng cách khinh thường lời giáo huấn của Tổ sư, huống hồ về sau nữa, và cho đến ngày nay, trách sao trong Tăng già có lắm phần tử trụy lạc, quên mình, dễ duôi, lợi dụng sắc phục Như Lai dối thế gạt đời, làm cho nền Phật giáo, càng ngày càng lu mờ xiêu đổ).

Ðại đức Maha Ca diếp đã nghe những lời đê tiện của thầy Tỳ Khưu Saubhadda. Ngài giả lơ, nhưng để dạ lo âu. Ngài cùng 500 đồ đệ lên đường, trực chỉ thành Kusinàrà. Vừa đến tháp Makutabandhana Cetiya, Ngài đi ngay lại hỏa đài, khoát y chừa vai trái, chấp tay lễ bái rồi đi quanh vòng quan đài 3 lượt, lại ngay giữa cúi đầu lạy Ðức Thế Tôn, năm trăm vị Tỳ Khưu cũng tiếp theo làm như thế.
 

Khi Ðại đức Maha Ca diếp và 500 vị Tỳ Khưu vừa làm lễ xong thì hòm vàng đựng thi hài của Ðức Thế Tôn phóng hào quang sáng rỡ làm cho ai ai cũng kinh ngạc. Ấy là lửa thần thông của Ðức Thế Tôn thiêu lấy thi hài của Ngài. Phần nào thuộc về da, thịt, gan, đều tiêu mất hết, không còn một chút tro tàn nào cả. Phần xương, tóc, móng, răng còn lại ở trong một cái đẩy làm vật đựng Xá Ly
Nguồn: Sưu tập


Khi Ðại đức Maha Ca diếp và 500 vị Tỳ Khưu vừa làm lễ xong thì hòm vàng đựng thi hài của Ðức Thế Tôn phóng hào quang sáng rỡ làm cho ai ai cũng kinh ngạc. Ấy là lửa thần thông của Ðức Thế Tôn thiêu lấy thi hài của Ngài. Phần nào thuộc về da, thịt, gan, đều tiêu mất hết, không còn một chút tro tàn nào cả. Phần xương, tóc, móng, răng còn lại ở trong một cái đẩy làm vật đựng Xá Ly. Sau khi hỏa táng xong, có một lằn nước tự hư không chảy xuống và 2 lằn nước từ trong cây Sala xẹt ra dập tắt hỏa đài. Ðức vua Malla cũng lấy nước thơm lại tưới hỏa đài.

Vua Malla xứ Kusinara đã chia Xá lị Phật như thế nào?

Xong xuôi đức vua thỉnh Xá Lỵ về đền làm lễ cúng dường bằng tràng hoa và nước thơm, và làm rào kiên cố chung quanh đền ấy, ngoài thành thì trấn thủ quân binh, tu bổ hào thành dường như sắp có trận giặc xảy đến. Vua xứ Kusinàrà nghĩ sợ các nước lân bang hay tin đến chiếm đoạt Xá Lỵ Phật mất đi.

Hẳn thật như sự tiên đoán của vua Malla, 6 vị sứ thần của:

- Vua A-xà-thế (Ajatasatru), xứ Magadha thành Vương xá.

- Vua Sakya, dòng Thích Ca tại thành Ca-bì-la-vệ.

- Vua Licchava, xứ Vesali.

- Vua Thuliya (hoặc Pali), xứ Allakappa.

- Vua Koliya xứ Ramagama.

- Vua Malla xứ Pava.

và vị Bà La Môn Mahabrahma, thủ lãnh xứ Veddhadipaka

Tất cả 7 đại diện đến yết kiến vua Malla xứ Kusinàrà tỏ rằng: "Chúng tôi hay tin Ðức Thế Tôn đã nhập Niết Bàn trong xứ Ðại vương, vì Ðức giáo chủ Thích Ca là vị cao thượng, chúng tôi đây cũng thuộc giòng cao thượng, nên đến xin Ðại vương chia cho một phần Xá Lỵ để đem về lập đền thờ cúng chiêm ngưỡng hằng ngày, mong Ðại vương nhận lời".

Bảy vị sứ thần bề ngoài tỏ ý khiêm tốn, nhưng dạ cương quyết bố trí binh mã ngoài thành, chờ coi vua Malla định lẽ nào.

Vua Malla nhứt định bát lời yêu cầu của các sứ thần; nhưng các vị này cũng không nản chí, cứ nài nỉ xin chia mãi.

(Hàng trí thức nên hiểu rằng: Ðức Phật định nhập diệt tại xứ Kusinàrà, là một xứ nhỏ không đủ lực lượng tranh đấu, có lẽ để ngừa sự xung đột về sau, do sự phân chia Xá Lỵ với cường quốc lân bang, nên Ngài không chịu nhận lời yêu cầu của Ðức Ananda muốn cho Ðức Thế Tôn đi diệt độ nơi một trong các cường quốc ấy).

Về phần vua xứ Kusinàrà, trước sự nhẫn nại và cương quyết của các sứ thần, ngài suy nghĩ rằng: sức mình yếu kém, không đủ ngăn chống hùng binh, và nếu chia Xá Lỵ cho những xứ này, mai kia còn những xứ khác đến xin chia nữa, còn đâu mà chia, chừng ấy sẽ còn xung đột nữa. Vả lại Ðức Thế Tôn là bậc Thiên nhơn Sư, thông hiểu quá khứ hiện tại, vị lai, mỗi việc làm của Ngài đều đem lại sự lợi ích lâu dài cho chúng sanh. Ngài nhập Niết Bàn tại xứ ta để lại hạnh phúc cho ta, ban bố Xá Lỵ cho ta; những Xá Lỵ này cũng không bền vững lâu dài bằng sự phụng hành giáo lý của Ngài để lại hầu tránh khỏi sự giết hại lẫn nhau. Không lẽ các cường quốc này lại muốn khai chiến với ta. Nghĩ như vậy. Vua Malla càng có đức tin mạnh nơi oai lực của Phật hộ trì, nhứt định không chia Xá Lỵ và tinh tấn làm lễ cúng dường Xá Lỵ để ngăn ngừa tai hại cho xứ Kusinàrà.
 

Ông Dona dùng cân bằng vàng, cân 8 phần Xá Lỵ bằng nhau, giao cho đại diện các xứ, luôn cả phần của Vua Malla. Rồi ông xin cây cân bằng vàng về phần ông. Ông được như ý nguyện.
Nguồn: Sưu tập

Các sứ thần cũng chẳng chịu nhượng bộ, quyết khai chiến với vua Malla.
Khi ấy có vị Bà La Môn tên Dona, là quốc sư của vua Malla, là bực trí tuệ và nhiều kinh nghiệm, xin đứng ra làm tài phán phân giải. Ông Dona nói rằng: Thưa các ngài, các Ngài nên hiểu rằng Ðức Thế Tôn chẳng phải là quyến thuộc của chúng ta, chúng ta muốn có Xá Lỵ, chẳng qua là chúng ta đã công nhận Ðức Thế Tôn là một vị giáo chủ, chúng ta có lòng ái mộ, muốn phụng thờ và hành theo chánh giáo của Ngài, vì sự sùng bái mà khai chiến với nhau, là một việc không phải lẽ và làm mất sự thân thiện lẫn nhau, vả lại Ðức Thế Tôn xưa kia chẳng hề khi nào dạy chúng ta gây chiến tranh cùng nhau, trái lại Ngài chỉ dạy chúng ta nhẫn nại, từ bi, hòa hợp dứt bỏ điều oán kết, sự giết hại lẫn nhau. Lại nữa khi Thế Tôn còn tại thế, các tín đồ hằng được gặp, được thấy, được cúng dường Ngài khắp mọi nơi. Giờ đây Ðức Thế Tôn, đã nhập diệt rồi, Xá Lỵ được phân chia trong các xứ tiện bề cho tín đồ chiêm ngưỡng lễ bái hằng ngày, thì đại chúng lấy làm hân hạnh biết bao. Còn như ngày sau có xứ nào đến xin Xá Lỵ, dễ cho đức vua Malla trả lời rằng cuộc phân chia Xá Lỵ đã có các Quốc Vương triệu tập đại hội phân chia đầy đủ cho mỗi xứ rồi, không còn nữa. Và lại hiện giờ các xứ lân bang lớn nhỏ đều có đại diện nơi đây, nếu chúng ta đem Xá Lỵ ra chia nhau mỗi xứ mỗi phần bằng nhau, thì tình thân thiện càng kết chặt giữa các Quốc Vương, thì ai ai cũng vui mừng tránh khỏi tai hại về chiến tranh. Các Xá Lỵ được đem về thờ cúng ở các nơi, người phát tâm trong sạch nơi Phật Bảo, và hành theo Kinh luật di truyền, xa lánh các điều ác, tạo thêm nghiệp lành, thì kết quả của sự nhẫn nại và hòa thuận hôm nay là sự đoàn kết giữa các lân bang để cùng nhau tiến bước trên đường Phật đạo, diệt tận những điều thù oán, giết hại lẫn nhau; như thế ấy mới xứng đáng làm đệ tử của Ðức giáo chủ Cồ Ðàm là đấng Từ bi cứu khổ.
Vua Malla và các sứ thần nghe được lời phải lẽ của ông Dona, đồng lòng giao cho ông lãnh trách nhiệm phân chia Xá Lỵ cho các xứ. Ông Dona dùng cân bằng vàng, cân 8 phần Xá Lỵ bằng nhau, giao cho đại diện các xứ, luôn cả phần của Vua Malla. Rồi ông xin cây cân bằng vàng về phần ông. Ông được như ý nguyện.

Sau khi chia Xá lỵ rồi, có giòng vua Moriya xứ Pipphali phái người đến xin lãnh một phần Xá Lỵ, vua Malla trả lời rằng: Ngài lấy làm tiếc, vì Xá Lỵ đã chia đồng đều cho các lân bang và cho Sứ thần một mớ than đem về thờ, thay thế cho Xá Lỵ.

Sự tích của Ðức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ Ngài nhập Vô lượng thọ Niết Bàn đáng cho ta ghi nhớ để chán nản, động tâm, không dám dễ duôi. Bực trí thức nên nghiêng mình lễ bái, kính trọng Phật tổ Như Lai, cho được thấy rõ lẽ cố nhiên của pháp hành là pháp Vô thường, không bền vững lâu dài. Thân ta đây có thọ tưởng, hành, thức đều phải dưới quyền của pháp già, đau, chết. Không một ai vượt qua khỏi Vô thường ấy được. Dầu cho Ðức Chánh biến tri là đấng giáo chủ rất cao thượng trong vũ trụ này còn phải bỏ tấm thân tứ đại để nhập Niết Bàn thay. Vậy hàng tín đồ yêu mộ Phật giáo chẳng nên dễ duôi, cố gắng tu học mãi mãi cho đến ngày giải thoát vào cõi vô sanh bất diệt đại Niết Bàn.


Nguồn: Phatgiao.org.vn