360 lượt xem

Tam Thế Phật gồm những vị nào? Thờ Tam Thế Phật có ý nghĩa gì?

Tam Thế Phật gồm những vị nào? Thờ Tam Thế Phật có ý nghĩa gì?
 
Tam Thế Phật là bộ tượng gồm 3 vị chư phật giống hệt nhau, được tạc trong tư thế ngồi kiết già. Ba vị chư phật này đại diện cho ba thời quá khứ hiện đại và tương lai gồm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà và Phật Di Lặc. Bên cạnh đó, Tam Thế Phật cũng có thể là ba vị chư Phật đại diện cho ba thế giới gồm Ta Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni, thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà và thế giới Tịnh Lưu Ly của Phật Dược Sư.
 

Tam Thế Phật là bộ tượng có 3 vị chư Phật giống hệt nhau gồm Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật Di Lặc hoặc Phật Dược Sư
Nguồn: Sưu tập

Tam Thế Phật gồm những vị nào?

Tôn tượng Tam Thế Phật là một trong những bộ tượng Phật được thờ cúng phổ biến tại Việt Nam. Thế nhưng, vẫn còn rất nhiều người chưa hiểu rõ cũng như chưa biết đến các vị này và thắc mắc liệu Tam Thế Phật là ai, cách thờ cúng ra sao. Trước tiên, trong Tam Thế Phật, chữ Thế có thể hiểu là Thời, tức là ba vị Phật ở ba thời gồm: quá khứ, hiện đại và vị lai. Trong đó, Phật trong quá khứ là Phật A Di Đà, Phật hiện tại là Thích Ca Mâu Ni Phật và Phật tương lai là Phật Di Lặc. Khi hiểu theo nghĩa này thì mỗi vị phật là đại diện cho sự vô lượng vô biên của chư Phật mười Phương. 

Ngoài ra, chữ Thế trong Tam Thế Phật còn được hiểu là thế giới. Trong đó, thế giới trung tâm ở giữa là thế giới Ta Bà do Phật Thích Ca Mâu Ni chủ quản; Phật phương Tây ở bên trái là thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà và Phật Phương Đông ở bên phải là thế giới Tịnh Lưu Ly của Phật Dược Sư. Khi hiểu theo nghĩa này thì Tam Thế Phật biểu tượng cho không gian vô lượng của thế giới chư Phật, từ phải sang trái, từ Đông sang Tây, từ trên xuống dưới… tượng trưng cho vô lượng vô biên vô số quốc độ Phật. 

Như vậy Tam Thế Phật có thể hiểu là ba vị Phật của ba thế giới khác nhau hoặc 3 thời khác nhau gồm Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Phật Di Lặc hoặc Phật Dược Sư. Bộ tượng Tam Thế Phật là hình ảnh của 3 vị Phật ở 3 thời gian và không gian khác nhau. Bộ tượng thường được các nghệ nhân xưa tạc lại là 3 vị Phật có hình dáng gần giống nhau (chỉ khác nhau ở trang phục, tư thế tay) đang ngồi tịnh tâm, kiết già, an nhiên tự tại trên đài sen. 

Thực tế, tên gọi đầy đủ của bộ tượng này thông dụng là Tam Thế Tam Thiên Phật hoặc Tam Thế Thường Trụ Diệu Pháp Thân nhưng được gọi tắt theo thói quen là tượng Tam Thế. Đa số ở Việt Nam, bộ Tôn tượng Tam Thế Phật là để chỉ các vị Phật ở Quá Khứ, Hiện tại và Tương lai. Tam thế Tam Thiên Phật có thể hiểu là ba ngàn Đức Phật trong ba đời, gồm:
 
  • Quá khứ thế nhất thiên Phật: Trong thời quá khứ ở Kiếp Trang Nghiêm có 1000 Đức Phật xuất thế, có thể kể đến như Tỳ Xá Phù, Thích Khí, Phật Tỳ Bà Thi và những vị Phật sau cùng trong một ngàn Đức Phật thuở ấy.
  •  Hiện tại thế nhất thiên Phật: Tức là ở đương thời Hiền Kiếp, có 1000 Đức Phật lần lượt ra đời như Ca Diếp, Thích Ca Mâu Ni, Câu Na Hàm Mâu Ni, Đức Phật Ca La Ca Tôn Đại, Phật Di Lặc và những vị Phật sẽ lần lượt ra đời để đủ 1000 vị Phật thời hiện tại.
  • Vị lai thế nhất thiên Phật: Tức là ở tương lai, nhằm kiếp Tinh Tú sẽ lần lượt ra đời 1000 vị Phật. 

Tam Thế Phật là ai?

Như đã đề cập, Tam Thế Phật bao gồm 3 vị là Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật A Di Đà và Phật Di Lặc hoặc Phật Dược Sư. Cụ thể:

1. Phật Thích Ca Mâu Ni

Phật Thích Ca Mâu Ni là vị ở chính giữa của bộ tượng, biểu trưng hiện tại hoặc là biểu tượng của thế giới Ta Bà. Ngài là Bổn Sư thị hiện ở thế gian đề giáo hoá chúng sinh, được tôn xưng là Phật Tổ Như Lai, Phật Đà hay Đức Thế Tôn. 

Theo các tài liệu Phật Giáo, Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ của cõi Ta Bà. Ngài đã giác ngộ hoàn toàn, được chứng Thánh, biết mình là Phật vào tháng 4 năm 588 TCN. Ngài là bậc đạo sư giác ngộ viên mãn, nhìn thấy được kiếp trước của bản thân, của chúng sinh, sự hình thành và huỷ diệt của thế giới. Ngài biết mình sẽ không tái sinh một lần nào nữa và đã thoát khỏi quy luật sinh tử luân hồi của thế gian.
 

Phật Thích Ca Mâu Ni ở giữa của bộ tôn tượng Tam Thế Phật, Ngài là giáo chủ của cõi Ta Bà
Nguồn: Sưu tập



Theo ghi chép trong kinh Phạm Võng, ngài thị hiện ở thế giới này lần này là lần thứ 8000. Trước khi trở thành Phật, ngài vốn là một vị Thái tử của tiểu vương quốc Shakya, con trai vua  (Tịnh Phạn)  tên là Tất Đạt Đa. Ngài được tiên tri rằng sẽ trở thành bậc vĩ nhân vĩ đại, kèm theo một lời tiên đoán rằng ngài sẽ bỏ đi tu hành sau khi thấy “một người già, một người bệnh, một xác chết và một sa môn”. Để con trai không đi tu, Vua Suddhodana đã cho thái tử hưởng hết vinh hoa phú quý, không tiếp xúc với cảnh khổ của cuộc đời.

Thế nhưng, trong một lần nộ khi đi qua bốn cửa thành, ngài nhìn thấy bốn hình ảnh gồm một người già yếu, một người bệnh tật, một tu sĩ và một xác chết. Ngài đã quyết định rời khỏi cuộc sống nhung lụa, giàu sang phú quý của mình để tìm đạo. Ngài là người phát hiện và khởi xướng con đường trung dung – Trung đạo thay vì ép xác khổ hạnh như các vị tu sĩ cùng thời. 


 Phật Thích Ca Mâu Ni đã dùng 49 năm để không ngừng nghỉ nói cho chúng sanh biết chân tướng của vũ trụ nhân sinh, có thể sớm ngày phá mê khai ngộ. Theo kinh điển Pali, Phật Thích Ca Mâu Ni tạ thế tám mươi năm. Vào mùa mưa năm 80 tuổi, Ngài đã dự đoán được bản thân sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa. 

Hiện nay, hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni thường gặp là tóc búi to hoặc có cụm xoắn ốc, nhục kế trên đỉnh đầu, mắt mở ba phần tư. Ngài mặc áo choàng qua cổ hoặc áo cà sa, không có chữ vạn trước ngực. Phật Thích Ca ngồi kiết già trên toà sen, tay xếp ngay ngắn trên đùi, thường bắt ấn thiền, ấn chuyển pháp luân hoặc ấn kim cương hiệp chưởng… 

2. Phật A Di Đà

A Di Đà được dịch là ánh sáng vô hạn, do đó Phật A Di Đà được gọi là Đức Phật Ánh Sáng. Theo Phật giáo Đại Thừa, tên của Ngài có nghĩa là Vô Lượng Thọ, tức thọ mệnh vô lượng và Vô Lượng Quang tức ánh sáng vô lượng. Phật A Di Đà là giáo chủ của giới Cực lạc ở Tây Phương. Ngài được biết đến qua lời kể của Phật Thích Ca Mâu Ni, có thể nói Ngài là vị phật của một thế giới khác. Theo các kinh điển, trong cuộc đời hoằng đạo của Phật Thích Ca, ngài đã giới thiệu về Đức Phật A Di Đà và cõi nước mà ngài giáo hóa chúng sinh cho tín đồ của mình. 

Theo Đại Kinh A Di Đà, trong một kiếp sống trước đây, ngài là Hoàng tử Kiều Thi Ca của nước Diệu Hỷ, con của vua Nguyệt Thượng Luân và hoàng hậu Thù Thắng Diệu Nhân. Ở thời bấy giờ, có Đức Phật là Thế Tự Tại Vương Như Lai giáng sinh cứu độ chúng sinh. Khi nghe tin có Phật tái thế, ngài đã rời bỏ cung điện, xin xuất gia, được Phật chấp nhận và cho thọ Tỳ kheo giới với hiệu là Pháp Tạng Tỳ kheo. Đứng trước Đức Phật, ngài phát 48 lời nguyện để độ mười phương chúng sanh, nếu lời nguyện nào không viên mãn thề không thành Phật.

 Nếu con người muốn sau khi chết được tái sinh về cõi Tây Phương thì trong quá trình sống cần làm việc thiện, điều thiện, siêng năng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Sau khi tái sinh đến cõi Tây phương, chúng ta sẽ tiếp tục tu hành dưới sự dẫn dắt của Phật A Di Đà cho đến khi thoát khỏi nghiệp báo luân hồi, chứng đắc Thánh quả.

Theo các tài liệu Phật giáo, Phật A Di Đà có hình dáng đặc trưng là đầu có cụm tóc hình xoắn ốc, miệng thoáng cười, mắt nhìn xuống, trên người mặc áo cà sa có thể khoát vuông ở cổ, nếu hở ngực thì trước ngực có chữ vạn. Phật A Di Đà có thể ngồi kiết già trên toà sen, tay bắt ấn thiền hoặc đứng làm ấn giáo hoá, trên tay Phật có một cái bát, là dấu hiệu cho giáo chủ.

3. Phật Di Lặc

Theo các tài liệu ghi lại, trong tiếng Phạn, từ Di Lặc là maitreya nghĩa là Từ Thị, tức là chủng tính từ bi, gồm từ trong tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) và thị trong chủng, họ, tộc, có năng lực làm cho Phạt chủng không đoạn đứt ở thế gian. Theo Kinh Bình Đẳng Giác và Kinh Pháp Hoa, ngài là một trong những vị đệ tử của Phật Thích Ca và sẽ là vị Phật kế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Theo kinh điển Phật giáo, Di Lặc là vị Bồ tát sẽ xuất hiện trên trái đất, ngài sẽ được giác ngộ hoàn toàn, giáo hóa chúng sinh, giảng dạy Phật Pháp và được chứng ngộ thành phật. Ngài hiện là một trong bốn vị Bổn Xứ Bồ Tát đang ở cung trời Đâu Suất, đến khi thế giới hết kiếp giảm thứ chín, đến kiếp tăng thứ mười thì ngài sẽ hóa thân xuống trong nhà của một vị Bà La Môn. 

Ở Ấn Độ, Phật Di Lặc được mô tả là một vị hoàng tử tuấn tú, thanh mảnh, thường mặc trang phục của hoàng gia Ấn Độ. Trong khi đó tại Trung Quốc và Việt nam, Ngài được biết đến với tướng mập tròn vui vẻ, trên vai đeo một túi vải, mặc áo hở bụng. Ngài đi đâu đâu cũng xin, người ta cho gì Ngài cũng lấy, khi gặp tụi nhỏ, ngài cho tụi nó hết. Ngài sống vô cùng tự tại, thích ở đâu thì ở, thích ngủ đâu thì ngủ. Cũng có những người lớn không ưa hay mắng chửi thậm chí nhổ nước bọt lên mặt Ngài nhưng Ngài vẫn bình thản, tự tại, lúc nào cũng nở nụ cười trên môi. 

4. Phật Dược Sư

Phật Dược Sư trong tiếng Phạn là Bhaisajyaguru, còn được gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Dược Sư Lưu Ly Như Lai hay Đại Y Vương Phật. Ngài có quốc độ là cõi Tịnh Lưu Ly ở phương Đông, bản nguyện của ngài chính là cứu tất cả bệnh khổ chúng sinh. Ngài được biết đến là vị Phật thông suốt tất cả y dược của thế gian, có thể chữa trị bệnh khổ của chúng sinh và những vọng tưởng do tham, sân, si gây ra. 

Phật Dược Sư thường được thờ chung với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật A Di Đà gọi là Tam Thế Phật. Trong đó, Phật A Di Đà ở vị trí bên phải và Phật Dược Sư ở vị trí bên trái Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài được thờ cúng rộng rãi ở Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. 

Ý nghĩa của bộ tượng Tam Thế Phật

Tam Thế Phật là bộ tượng có 3 pho tượng giống hệt nhau, được tạc trong tư thế ngồi thiền kiết già. Bộ Tôn tượng Tam Thế Phật mang ý nghĩa phổ quát, các Ngài là những vị Phật có trí tuệ, đạo hạnh cao thâm, đã dùng trí đức để cứu độ chúng sanh, dắt con người đi qua biển khổ luân hồi. Trong công cuộc cứu độ, dù trải qua hằng hà sa số kiếp cùng muôn vàn khó khăn thử thách, các Ngài vẫn một lòng hướng thiện. 

Theo văn hoá phương Đông, ý nghĩa của bộ Tôn tượng Tam Thế Phật có thể được hiểu như sau:
 
  • Đây là bộ tượng tôn vinh công đức của các vị chư Phật ở nhiều không gian và thời gian. Nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng cuộc sống hiện tại, phải sống để sau khi nhìn về quá khứ đều là những ngày đáng quý đồng thời cũng cần vui vẻ, lạc quan hướng đến tương lai tốt đẹp.
  • Bộ tượng thường được thờ cúng để cầu bình an cho gia đình, mong muốn được các ngài che chở, phù hộ độ trì, bởi các Ngài có tấm lòng từ bi rộng lớn luôn phù trợ, cứu khổ cứu nạn, giúp con người thoát khỏi tai ương, hiểm nguy trong đời sống.
  • Khi chúng ta thành tâm đảnh lễ, chiêm bái, ngày ngày ngắm tượng các Ngài, chúng ta sẽ học cách giữ tâm thanh tịnh, thoát khỏi phiền não, tìm được chân lý cuộc sống, phát tâm nhân từ, tiêu trừ vọng tưởng, tạp niệm không đáng có từ đó tìm được hạnh phúc chân thật để cuộc sống an yên và vui vẻ hơn. 
  • Trong bộ tượng Tam Thế Phật, sự hiện diện của Phật Di Lặc mang ý nghĩa cầu bình an, may mắn. Ngài cũng luôn gắn liền với trẻ thơ nên được dân gian tin tưởng rằng sẽ mang đến cuộc sống sung túc, ấm no, con cháu đầy đàn cho gia đình. 

Ngoài ra, bộ tượng Tam Thế Phật còn thể hiện tín ngưỡng thờ Phật từ thời xa xưa, đây là tín ngưỡng lâu đời của người Việt. Thờ tượng Phật tức là chúng ta đang nuôi dưỡng một đức tin trong tim mình. Nhờ đức tin này mà chúng ta có sức mạnh vượt qua khó khăn, hiểu được ý nghĩa cuộc sống, tin rằng mình sẽ được che chở, phù hộ, chỉ cần sống tốt thì quả ngọt sẽ đến.

Cách thờ Tôn tượng Tam Thế Phật tại gia

Thờ Tam Thế Phật là cách Phật tử thể hiện lòng thành của mình với chư Phật. Khi thờ tôn tượng Tam Thế Phật, gia chủ cần lưu ý:
 
  • Thờ cúng chư Phật là cách chúng ta thể hiện lòng tri ân với Tam bảo, việc thờ cúng quan trọng là lòng thành, cái tâm thành kính, không cần đặt nặng về kích thước, chất liệu tượng. 
  • Bàn thờ Phật nên đặt ở độ cao thích hợp, sau tượng không nên có cửa sổ và không chọn các gian phòng bị phòng khác đè lên. Nên đặt bàn thờ ở hướng ra cửa chính, bàn thờ nên cao hơn đầu gia chủ, nếu nhà phố thì nên đặt ở tầng cao nhất của căn nhà để thể hiện sự uy nghiêm, trang trọng
  • Nên đóng bàn thờ vững chãi, chắc chắn, tránh đặt hướng đối diện nhà vệ sinh, phòng ngủ nhà bếp, hướng nhà tắm, chân góc cầu thang hay toilet. 
  • Nếu trong nhà đang thờ các vị Thần Thánh khác thì cũng không nên dẹp bỏ, cần thờ tượng Phật ở vị trí trung tâm, thờ gia tiên và Thần Thánh ở hai bên. Bởi Phật đã thoát khỏi luân hồi, là đấng tối cao, đặt bàn thờ gia tiên ở bên cạnh để nương tựa các ngài trở thành đệ tử Tam bảo.
  • Tuyệt đối không đặt giấy tiền, vàng mã hay bùa chú lên bàn thờ Phật, đây là mê tín dị đoan, đi ngược lại tín ngưỡng Phật Giáo. Đồ cúng các vị nên là đồ chay, thay mới hoa quả thường xuyên và chỉ nên dùng chén đĩa dành riêng để cúng Phật. 
  • Khi thờ tượng Phật, nên thỉnh các ngài về không gọi là mua tượng Phật vì các ngài không phải là món hàng mà chúng ta có thể mua bán. Trước khi thỉnh cần đến chùa để được sư thầy hướng dẫn cách thỉnh tượng đúng cách và nên chuẩn bị xong tất cả mọi thứ. Thông thường, ngày thỉnh Phật là ngày mùng 1, ngày rằm hoặc ngày vía các chư Phật, Bồ Tát. 

Phật không có hình tướng cụ thể, chúng ta nghĩ về ngài như thế nào thì ngài trong tâm của chúng ta như thế ấy. Thờ cúng tượng Phật là cách mà Phật tử bày tỏ lòng thành với chư Phật, đồng thời giúp chúng ta có thể gia tăng đức tin, có được cái tâm từ bi, thoát khỏi tham sân si chứ không đơn giản là cầu bình an, an lạc.

Nguồn: Vnctongiao.org