268 lượt xem

Đỗ Năng Tế

Đỗ Năng Tế

Theo Thần phả, sự tích Thành hoàng làng Mỹ Giang như sau: Thời Đông Hán, ở xứ Nam Sơn, phủ Khoái Châu, Hưng Yên có một nhà hào phú họ Đỗ. Ông là người phúc  hậu, nhân từ được nhân dân kính trọng. Ông kết hôn với bà Trần Thị Dực, nhưng chẳng bao lâu bà bị trọng bệnh rồi mất. 

Trong làng có một hào trưởng họ Cao là người độc ác, tham lam tàn bạo, chuyên bày mưu thâm kế hiểm hại người. Thấy Đỗ Công mất vợ, hắn đánh tiếng gả em gái cho ông, nhưng thực chất là để chiếm gia tài. Đỗ Công biết vậy nên từ chối. Không đạt được mục đích, họ Cao liền vu oan giá họa khiến cho Đỗ Công khuynh gia bại sản mà sinh bệnh. Bệnh tình ngày càng trầm trọng, khi tỉnh khi mê, lúc khóc lúc cười, thuốc thang chữa mãi mà không khỏi. 

Hồi ấy ở xã Thượng Hiệp, xứ Sơn Tây, có một lương y hiệu Hòa Đường tiên sinh rất giỏi nghề thuốc, chữa được nhiều bệnh lạ, danh thơm lừng lẫy. Người nhà họ Đỗ biết tiếng liền đón về chữa bệnh cho Đỗ Công. Sau một tháng thì bệnh tình Đỗ Công khỏi hẳn. Từ đấy, ông giao lại nhà cửa cho người thân, theo Hòa Đường tiên sinh học thuốc và trở thành một thầy thuốc giỏi. 

Ở xã Khánh Hợp (Mỹ Giang) có người họ Nguyễn vốn dòng thế gia cự phiệt bị bệnh nặng liền mời Đỗ Công chữa trị. Quả nhiên khỏi bệnh. Vợ chồng Nguyễn Công chỉ sinh được một người con gái, tài sắc vẹn toàn, nết na, hiếu hạnh. Để đền đáp công ơn chữa khỏi bệnh cho mình, ông bà liền đem con gái gả cho Đỗ Công. 

Từ đó, Đỗ Công ở hẳn bên ngoại chuyên tâm làm thuốc, cứu nhân độ thế, được người dân quanh vùng quý trọng. Tuy nhiên, Đỗ Công tuổi đã lục tuần mà con cái vẫn chưa có. Ông bà ngày đêm cầu trời khấn Phật, mong được toại nguyện. Một hôm hai ông bà rủ nhau đến chùa Thiên Thai (?) làm lễ cầu tự. Đến nơi đã quá nửa đêm, ông bà đành nghỉ ở Tam Quan chùa. Trong khi ngủ, bà mơ màng thấy sân chùa có một cây tùng rất to, cao ngút trời, bà liền trèo lên bẻ trộm một cành tùng. Khi bà xuống tới đất, chợt có một ông già mình tiên, cốt hạc, râu tóc bạc phơ, mặc áo vàng, thắt đai vàng, đầu đội mũ hoa, tiến lại gần bà và đọc to bốn câu thơ: 

 
Thiên thượng hữu thanh tùng,
Kim phó gửi Đỗ Công.
Trượng phu danh bất hủ,
Hậu tất hữu thành công.

Dịch nghĩa:
 
Trên trời có cây tùng xanh,
Nay giao phó cho Đỗ Công.
Bậc trượng phu tiếng tăm bất hủ,
Về sau nhất định sẽ thành công.

Đọc xong, cụ già theo đường mây bay lên không trung biến mất. Tỉnh dậy, bà kể lại cho chồng nghe, Đỗ Công trong lòng vui mừng. Quả nhiên, từ đó bà đã mang thai. Đúng mười ba tháng, vào giờ Ngọ, ngày mùng 6 tháng  3 năm Canh Dần bà sinh hạ một cậu con trai khôi ngô, tuấn tú. Chưa đầy một năm đã biết nói, lên 5 tuổi đã phong tư dĩnh ngộ, diện mạo kỳ khôi, mặt vuông, trên đầu có ngũ nhạc triều thiên. Ông bà mừng rỡ đặt tên là Đỗ Năng Tế. 

Năm lên tám tuổi, Đỗ Năng Tế được cha mẹ cho đến học Tạ Tiên sinh tại trường hàng xã. Tạ Tiên sinh quê ở Hoan Châu, đến dạy học và lấy vợ là Đào Thị Tuyết ở Khánh Hợp. Một hôm bà nằm mơ thấy chim phượng bay vào phòng rồi từ đấy có thai. Mãn nguyệt tới kỳ, bà sinh ra một người con gái và đặt tên là Tạ Thị Cẩn (Cẩn Nương). Càng lớn Cẩn Nương càng xinh đẹp, mắt phượng, mày ngài, mặt hoa, da phấn, nhan sắc tuyệt trần. Vốn đã thông minh, thiên tư sáng láng lại đượng học hành tử tế, chẳng bao lâu Cẩn Nương đã giỏi giang võ nghệ, thông thạo văn chương, ít người sánh kịp, ai ai cũng cho là “Thánh nữ giáng trần”. 

Thấy Đỗ Năng Tế là người kỳ tài xuất chúng, văn võ song toàn, Tạ Tiên sinh rất quý mến. Khi Đỗ Năng Tế và Cẩn Nương đến tuổi cập kê, ông bà liền tác hợp cho hai người nên vợ nên chồng. Thật là trai tài gái sắc, phải lứa xứng đôi.

Năm Tế Công 21 tuổi, Cẩn Nương 20 tuổi thì tiếng tăm đã lừng lẫy khắp vùng. Cả hai đều là anh hùng hào kiệt, khoan dung độ lượng, cứu người nghèo, giúp kẻ khó. Vì vậy, người các nơi kéo đến theo ông rất đông. 

Thủa ấy nước ta bị nhà Đông Hán xâm lược, Thái thú Tô Định nổi tiếng tàn ác. Ở đất Phong Châu, huyện Mê Linh có Hùng Lạc tướng là cha của Trưng Trắc, Trưng Nhị. Biết Đỗ Năng Tế là người tài giỏi, Hùng Lạc tướng bèn truyền hịch chiêu mộ. Đỗ Năng Tế cùng vợ là Cẩn Nương bèn tập hợp trai tráng đầu  quân. Hùng Lạc tướng phong cho Đỗ Năng Tế là “Tiết cấp trưởng nội các binh sự” và phong cho Cẩn Nương là “Tham tán quân trung hoằng phu nhân” thống lĩnh các đạo nữ binh. Khi Lạc tướng tuổi cao, sức yếu bệnh nặng, lúc lâm chung ông đã ủy thác và phong cho Đỗ Năng Tế  là “Tiết cấp nhập nội Thái tử quốc chính, trung tín hầu” để giúp thái tử và Hai Bà Trưng trông nom quốc sự. Vì vậy trong dân gian còn truyền Đỗ Năng Tế là thầy dạy của Hai Bà Trưng. 

Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Đỗ Năng Tế đã có công rất lớn giúp Hai Bà thu phục 65 thành trì, xưng hiệu Trưng Vương, trị vì đất nước. Hai Bà phong cho Đỗ Năng Tế là Hộ quốc phục dực đại vương, Cẩn Nương là Hoằng tướng trưởng nội các phu nhân, Đặng Xuân Nương, Lý Thanh Nương (là hai người thiếp của Đỗ Năng Tế) cũng được phong Tả, Hữu thị nội nữ quân. Được một thời gian, Đỗ Năng Tế tuổi đã cao nên xin về nghỉ ngơi tại xã Khánh Hợp.

Hai Bà Trưng lên ngôi được ba năm thì nhà Đông Hán lại sai Mã Viện sang xâm lược nước ta. Đỗ Năng Tế lại cùng ba bà vợ kéo quân lên giúp Hai Bà Trưng đánh giặc. Nhưng rồi quân Hán quá mạnh, quân ta chống cự không nổi nên thất trận. Cẩn Nương và Đặng, Lý phu nhân tự tử ở hồ Lãng Bạc (hồ Tây, Hà Nội).

Lúc bấy giờ ở Khánh Hợp (Mỹ Giang) có một khu đất rộng, cây cối um tùm, rậm rạp, chim chóc, muông thú về đây trú ngụ rất đông. Dân làng gọi nơi đây là Quán Rậm. 

Đỗ Năng Tế bị thương chạy về ẩn náu trong một hang đá ở Quán Rậm. Biết mình không qua khỏi, ông mời dân làng đến dặn dò và hóa tại đây. Hôm ấy là ngày 17 tháng 7. Khi dân làng chuẩn bị khâm liệm cho ông thì đã thấy mối kiến đùn lên thành một ngôi mộ to. Lúc đó trời đất tối sầm, mưa tầm tã, sấm sét vang trời. Một lúc sau trời quang mây tạnh, từ ngôi mộ một luồng mây trắng bốc lên biến thành một đám mây ngũ sắc, rồi đám mây ấy lại biến thành cầu vồng bảy sắc.

Để tỏ lòng thương tiếc và ghi nhớ công ơn của ông vì dân, vì nước dân làng Mỹ Giang đã lập đền thờ và tôn làm Thành hoàng làng.

Đến thời nhà Lê chống giặc Minh, khi đóng quân ở Khánh Hợp (Mỹ Giang), mỗi khi gặp khó khăn, trở ngại, Nguyễn Trãi thường đến làm lễ cầu đảo tại đình thờ Đỗ Năng Tế. Sau mỗi lần cầu đảo, quân ta đều thắng trận, giặc Minh thua to, Nguyễn Trãi đều tâu với vua là Thái Tổ Cao Hoàng đế sắc phong vạn cổ huyết thực hương hỏa vô cùng, và phong Đỗ Năng Tế là Uy linh dũng lược đại vương, Cẩn Nương phu nhân là Phượng Phi Trinh Thục phu nhân.

Hiện nay đình Mỹ Giang còn lưu lại được 13 đạo sắc phong, sớm nhất là năm Chiêu Thống thứ nhất (1786) và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924).

Dân làng ở đây kiêng húy bảy chữ “Tế, Cẩn, Xuân, Khanh, Tín, Dực, Bản”. 

Hội làng được mở từ ngày mùng 6 đến ngày mùng 8 tháng 3 âm lịch. Trong ba ngày hội dân làng tổ chức tế lễ, rước kiệu từ đình Mỹ Giang ra làm lễ ở lăng mộ Đỗ Năng Tế (Quán Rậm), sau đó lại rước về đình tế lễ. Trong những ngày lễ hội nhiều trò diễn dân gian được tổ chức như: bắt chạch trong chum, đi cầu khỉ, bịt mắt bắt dê, chọi gà, đấu vật… Ở đây nhân dân còn truyền tụng câu ca:

 
Mùng bảy thì hội chùa Thầy
Mùng tám đám Hiệp nhớ ngày mà đi

 
Đình Mỹ Giang được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1989. 

Nguồn : https://nguoihanoi.com.vn