239 lượt xem

Dương Trực Nguyên

Dương Trực Nguyên

Trong hội thơ “Tao Đàn nhị thập bát tú” có một “vì sao” văn võ song toàn, đó là Dương Trực Nguyên (1468 – 1509). Vị quan trung quân, ái quốc này sớm đoản mệnh ở tuổi 42. Di sản thi ca mà ông để lại không nhiều, nhưng vẫn đủ để phác họa chân dung một nhà thơ yêu nước, người con của quê hương Hòe Thị.

Gần 20 năm chốn quan trường

Dương Trực Nguyên quê tại thôn Thượng Phúc (xã Thượng Phúc, tổng La Phù, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam), nay là thôn Hòe Thị (xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội).

Năm 1490, khi mới 23 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ rồi được phong chức Hiệu lý Viện Hàn lâm, ít lâu sau làm Hiến sát Hải Dương. Trong 20 năm làm quan dưới 4 triều vua: Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông và Lê Uy Mục, ông trải qua gần 20 chức vụ khác nhau, cao nhất là Ngự sử đài và tham gia Hội thơ Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông sáng lập năm 1495. Ông là một trong số ít người từng làm quan ở cả 6 bộ Binh, Hình, Công, Lễ, Hộ, Lại.

Năm 1497, Tiến sĩ Dương Trực Nguyên khi đó đang giữ chức Đông các Hiệu thư đã tham gia biên soạn Bộ luật Hồng Đức. Năm 1498, ông được thăng Lại khoa Cấp sự trung. Đến năm 1499, ông được cử làm Phủ doãn phủ Phụng Thiên (Hà Nội). Năm 1500, ông được phong Đô đình úy, một chức quan cấp cao phụ trách việc xét xử.

Tuy làm quan ở kinh thành nhưng Dương Trực Nguyên luôn quan tâm đến đời sống của bà con ở quê hương. Ông là người tâu với vua việc đắp đê sông Nhuệ từ làng Trát Cầu đến làng Cống Xuyên, đi qua quê ông là Hòe Thị và khai con cừ (ngòi, lạch) từ An Phúc xuống Thượng Phúc để phòng lũ lụt, hạn hán, giúp nhân dân yên tâm sản xuất nông nghiệp.

Năm 1509, vua Lê Uy Mục phong Dương Trực Nguyên làm Đô ngự sử đài – chức quan giữ việc hặc tấu (tâu vua để hạch hỏi tội lỗi của quan lại). Tháng 11-1509, Giản Tu công Lê Oanh (vua Lê Tương Dực sau này) khởi binh làm phản ở Thanh Hóa và tiến về Đông Kinh. Dương Trực Nguyên được phong Tán lý, cùng tướng Lê Vũ cầm quân dẹp loạn. Thế quân Lê Oanh mạnh đã đánh tan quân triều đình ở nhiều phòng tuyến, Dương Trực Nguyên giao tranh với Lê Oanh và tử trận tại làng Châu Cầu, nay thuộc huyện Kim Bảng (Hà Nam) khi mới 42 tuổi. Sau khi ông mất, vua Lê Tương Dực đã truy tặng ông chức Ngự sử đài Trung đô ngự sử, truy phong Thượng đẳng phúc thần, cho dân làng quanh quê hương ông thờ phụng.

Tuy là thành viên của Hội thơ Tao Đàn nhưng do bận nhiều công việc, ông không để lại được tập thơ riêng. Hiện có 2 tập thơ phụng họa ngự chế (họa thơ Lê Thánh Tông) còn lưu giữ được một số bài của ông là tập “Quỳnh uyển cửu ca” và “Văn minh cổ xúy”…

Được thờ nhưng không phải Thành hoàng

Đình làng Hòe Thị có 9 đạo sắc phong, thờ Thành hoàng làng Khiêm Xung đại vương, một vị thiên thần. Việc thờ phụng vị thiên thần này bắt nguồn từ chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1508 của Dương Trực Nguyên. Trên đường về, đến hồ Động Đình gặp bão nên Dương Trực Nguyên lên đảo giữa hồ để tránh. Trên đảo có một miếu thờ, có bia ghi tám chữ “Khiêm xung mặc vận thành chương hiển ứng”. Ông về tâu vua. Vua cho là thần phù hộ nên sắc phong thành hoàng làng, sắc lệnh cho 5 làng phụng thờ, nay là 7 làng gồm Hòe Thị, Mễ Sơn, Yên Phú, Gia Phúc, Gia Khánh, Lộc Dư, Đình Tổ.

Trong 9 đạo sắc phong, đạo xưa nhất có niên đại Cảnh Hưng năm thứ nhất (1740). Đạo có nội dung phong phú có niên đại Tây Sơn Cảnh Thịnh năm thứ nhất (1793), ghi Dương Trực Nguyên có công giúp nước, mở rộng ơn sâu, giữ yên ổn 4 phương và được nhân dân trong vùng thờ phụng. Vì vậy, một số nơi đang nhầm lẫn Dương Trực Nguyên là Thành hoàng làng.

Dương Trực Nguyên khi còn sống không chỉ là một vị quan thanh liêm, trung quân ái quốc, luôn quan tâm đến đời sống nhân dân mà khi mất đi còn nhiều lần hiển linh giúp nước, giúp dân. 300 năm sau khi mất, năm 1809, sử gia Phan Huy Chú có chép: “Ông chết trở nên linh thiêng, người làng thờ cúng, sau phong Thượng đẳng phúc thần”.
Tên làng Hòe Thị cũng bắt nguồn từ Dương Trực Nguyên. Trước đây, làng có tên là Thượng Phúc. Một lần, nhà vua ban cho ông cây hòe. Ông mang về trồng ở chợ làng, cây lên xanh tốt. Trong tiếng Hán, “thị” tức là chợ nên dân làng đã đổi tên thành Hòe Thị như một cách ghi nhớ công lao của Dương Trực Nguyên.

Làng Hòe Thị hiện không còn cây hòe do Dương Trực Nguyên trồng. Dòng họ Dương cũng đã ly tán khắp nơi, chỉ còn duy nhất một hộ mang họ Dương và không xác định được có phải hậu duệ của Dương Trực Nguyên không. Tuy vậy, trong ký ức và niềm tin của người dân Hòe Thị, Dương Trực Nguyên mãi là một biểu tượng lớn của sự hiếu học, tận tụy, hết lòng vì đất nước và quê hương.

Nguồn: Báo Hà Nội Mới