Hồ Tùng Mậu - người anh em chí thiết của Bác Hồ
Hồ Tùng Mậu, sinh năm 1896, tên khai sinh là Hồ Bá Cự. Gia tộc ông thuộc hàng "danh gia vọng tộc" của làng khoa bảng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu, Nghệ An), cũng là gia tộc đời nối đời tham gia chống thực dân Pháp. Ông nội ông là Án sát Hồ Bá Ôn, bị tử thương khi chỉ huy bảo vệ thành Nam Định. Cha ông là Hồ Bá Kiện, đã hy sinh trong chiến đấu khi lãnh đạo tù nhân phá nhà ngục Lao Bảo.
Sự lựa chọn lịch sử
Cuối tháng 4-1920, Hồ Bá Cự xuất dương sang Quảng Châu (Trung Quốc) theo gương người chú-ông Hồ Học Lãm-đã sang trước từ năm 1908 trong Phong trào Đông Du và trở thành chỗ dựa cho các nhà hoạt động cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc. Trên đường xuất dương, ông quyết định đổi tên thành Hồ Tùng Mậu cho tiện hoạt động bí mật. “Tùng Mậu” có nghĩa là cây tùng tươi tốt. Ông quyết tâm sống như cây tùng, cây bách, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng vững chãi, lạc quan, tươi trẻ. Cuộc đời hoạt động của ông đã chứng minh cho ý chí quyết tâm đó.
Hồ Tùng Mậu sang Trung Quốc đúng lúc phong trào yêu nước Việt Nam đang thoái trào. Ở Hàng Châu, mặc dù được Hồ Học Lãm giúp đỡ nhưng Hồ Tùng Mậu vẫn phải làm những công việc trên đường phố như làm xiếc, kéo xe để thêm vào sinh hoạt hằng ngày. Đầu năm 1923, theo lời khuyên của Phan Bội Châu và sự giới thiệu của Hồ Học Lãm, ông tới Quảng Châu. Tại đây, ông xin được vào học lớp điện tín và bắt đầu hoạt động cách mạng.
Năm 1923, những người yêu nước trẻ tuổi như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Lâm Đức Thụ... lập ra Tâm Tâm xã, nhấn mạnh sự đồng tâm nhất trí hy sinh cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, chủ trương của Tâm Tâm xã vẫn là ám sát bọn đầu sỏ thực dân và những tên tay sai nguy hiểm nhất. Tháng 11-1924, tại cuộc gặp mặt đầu tiên với những thành viên chủ chốt của Tâm Tâm xã, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khuyên họ rằng: Con đường đúng đắn phải là tuyên truyền, tổ chức quần chúng, dựa vào công-nông, xây dựng tổ chức cách mạng, được vũ trang bằng lý luận cách mạng. Từ đây, những người trẻ tuổi của Tâm Tâm xã đã trở thành nòng cốt của cách mạng Việt Nam trên đất Quảng Châu.
Ông Hồ Tùng Mậu ( Ảnh tư liệu ).
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc, lúc này được anh em gọi là "đồng chí Vương", họp cùng các thành viên Tâm Tâm xã bàn việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (VNCMTN). Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn (người đồng chí cùng xuất dương) là trợ thủ cho đồng chí Vương tổ chức cuộc họp này. Năm 1926-1927, đồng chí Vương tổ chức các lớp huấn luyện cho các thành viên Hội VNCMTN. Hồ Tùng Mậu vừa là người phụ đạo thảo luận, vừa là quản lý, chăm lo hậu cần cho lớp học.
Hội VNCMTN phát triển rất mạnh, dần dần hình thành 3 tổ chức cộng sản ở trong nước. Cuối thập niên 20 của thế kỷ 20, cách mạng Việt Nam cần có một chính đảng cộng sản duy nhất, nhưng các tổ chức cộng sản lại không thể thống nhất với nhau được và có nguy cơ phân liệt. Để cứu vãn tình thế, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn đã tìm mọi cách vận động để tạo sự đồng thuận, nhưng việc không thành. Được tin này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến Hương Cảng với danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập một cuộc họp bàn việc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Đông Dương thành một chính đảng duy nhất. Cuộc họp gồm 7 người (kể cả Nguyễn Ái Quốc). Hồ Tùng Mậu là một trong 7 người đó. Đó là cuộc họp lịch sử thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930).
Tháng 6-1931, Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh bắt tại Hương Cảng. Chúng dự định trao tù nhân cho chính quyền thực dân Pháp. Hồ Tùng Mậu là người phát hiện việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt. Bác Hồ đã kể lại sự kiện này trong cuốn tự truyện "Vừa đi đường vừa kể chuyện" như sau: Năm 1931, thực dân Anh bắt đồng chí Hồ Tùng Mậu ở Hồng Công. Ít lâu sau thì Bác cũng bị bắt khi đang ở ngôi nhà số 186, phố Tam Lung. Với những người hoạt động cách mạng Việt Nam lúc đó, thực dân Anh thường chỉ giam giữ ít lâu, tra khảo lấy khẩu cung rồi đuổi đi khỏi cảng chứ không xử án tù. Thực chất là chúng trục xuất khỏi cảng bằng thuyền, hễ bước chân lên thuyền thì mật thám Pháp hoặc cảnh sát Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch sẽ bắt ngay. Khi Bác bị bắt vào ngục thì đồng chí Hồ Tùng Mậu lại chuẩn bị "được trục xuất". Vì thế, ra khỏi nhà lao, ông đã kịp thời liên hệ với cơ quan Hội Quốc tế Cứu tế Đỏ đóng ở Hương Cảng và nhờ Luật sư Francis Henry Loseby can thiệp, bào chữa cho Nguyễn Ái Quốc trước tòa án và tìm mọi cách giải thoát Nguyễn Ái Quốc khỏi nanh vuốt của thực dân Pháp.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Tùng Mậu đã nhiều lần bị địch bắt, từng bị kết án tử hình (năm 1929). Lần bị bắt cuối cùng xảy ra chính trong khi luật sư Loseby tìm cách giải cứu cho Nguyễn Ái Quốc. Từ Hồng Công, Hồ Tùng Mậu bị giải về nhà lao Vinh. Ngày 6-12-1931, ông bị kết án tử hình lần thứ hai. Cũng như lần trước, nhờ sự đấu tranh của dư luận và kháng cáo của luật sư, ông lại thoát tử hình và nhận án khổ sai chung thân. Bắt đầu từ đây là 15 năm tù ngục. Ông đã qua nhà tù Lao Bảo, địa ngục Kon Tum, nhà lao Buôn Ma Thuột, “trại an trí” Trà Khê.
Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp, ông cùng các bạn tù thoát ngục Trà Khê trở về tham gia lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Kháng chiến bùng nổ, Hồ Tùng Mậu giữ trọng trách Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Liên khu IV, đồng thời là Chính ủy đầu tiên của Quân khu IV kiêm Chính ủy Trường Quân chính Nhượng Bạn (Hà Tĩnh). Với bộ râu thưa, học vấn uyên thâm, tính tình hiền từ và gần gũi nhân dân, nhiều người khu IV gọi ông là “Cụ Hồ em”. Chính trong thời kỳ này, ông nhận được tin sét đánh: Hồ Kim Xuyên (tức Hồ Mỹ Xuyên), người con trai duy nhất, một tài năng triển vọng kế tục ông, đã hy sinh trên đường công tác khi mới 28 tuổi đời. Ông nén đau thương để không ảnh hưởng đến công tác.
Tháng 12-1949, Hồ Tùng Mậu được cử làm Tổng thanh tra Chính phủ. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày 21-7-1951, trên đường đi công tác, đoàn công tác của ông bị máy bay Pháp phát hiện và đuổi bắn. Hồ Tùng Mậu hy sinh.
Bác Hồ (ngồi đầu tiên, từ phải sang) chụp ảnh cùng một số Ủy viên Trung ương Đảng khóa II (năm 1951) tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Hồ Tùng Mậu đứng thứ tư, từ phải sang. (Ảnh tư liệu )
Làng Quỳnh Đôi của ông vốn có ân sâu nghĩa nặng với gia đình cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Hồ Tùng Mậu lại là người trợ thủ gần gũi của Bác Hồ nên Bác có một tình cảm đặc biệt với ông và gia đình. Khi Hồ Kim Xuyên hy sinh, Bác viết thư chia buồn, có đoạn: “Tôi rất đau buồn báo tin cho chú biết: Cháu Hồ Kim Xuyên không may đã hy sinh trong khi đi công tác cùng Đặc ủy đoàn Chính phủ tại Lục Yên Châu-Yên Bái... Cháu Xuyên mất đi, chú mất một người con, tôi mất một người cháu, nhân dân mất một chiến sĩ, đoàn thể mất một cán bộ. Chú cần giữ gìn sức khỏe vì công việc kháng chiến còn nhiều. Chú chuyển cho tôi lời chia buồn tới bà cố, thím và tất cả gia đình”.
Khi biết tin Hồ Tùng Mậu hy sinh, tự tay Bác Hồ đã viết thư điếu. Trong đó có đoạn: “Về tình nghĩa riêng: Tôi với chú là đồng chí, lại là thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi đấu tranh ở nước nhà, hơn 25 năm, đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ, như tay với chân. Về công việc chung: Từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân thành lập, đến thời kỳ kháng chiến cứu nước, tôi đã thay mặt Chính phủ và đoàn thể giao phó cho chú những trách nhiệm nặng nề... Đồng bào, Chính phủ và đoàn thể đang cần những con người đắc lực như chú. Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, đoàn thể mất một người đồng chí trung thành, và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!”.
Gia tộc Hồ Tùng Mậu có 4 thế hệ kế tiếp đã bỏ mình vì nước. Trong đó, ông là người cuối cùng. Dù 4 đời hy sinh vì nước, nhưng gia đình ông vẫn kịp gieo hạt mầm mới cho cách mạng. 3 người cháu nội của ông (con của Hồ Kim Xuyên) sau này đều giữ trọng trách của Đảng, có người là Ủy viên Bộ Chính trị, có người giữ chức bộ trưởng, thứ trưởng.
Năm nay tròn 70 năm Hồ Tùng Mậu hy sinh. Bài viết này xin thay nén tâm hương tưởng nhớ ông-người trợ thủ xuất sắc, tận tụy, người anh em chí thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nguồn: Ct.qdnd.vn