341 lượt xem

Lương Thế Vinh

Lương Thế Vinh chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí và phải vận dụng kiến thức vào cuộc sống.

Lương Thế Vinh sinh năm 1441 ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo (Vụ Bản, Nam Định). Hồi nhỏ, ông nổi tiếng khỏe mạnh, học một biết mười, nhưng nghịch ngợm cũng bằng mười chúng bạn. Lớn lên một chút, ông được bố mẹ gửi tới học với cụ Giải nguyên Lương Hay ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa) và trở thành học trò giỏi của cụ, đỗ trạng nguyên ngay trong lần đầu lều chõng đi thi vào năm 22 tuổi.

Ông Trạng Lường với hơn 30 năm ở chốn quan trường

Lương Thế Vinh được gọi là Trạng Lường bởi rất giỏi đo lường, tính toán. Sách Thần đồng xưa của nước ta viết, tương truyền từ thuở nhỏ, có lần chơi cùng chúng bạn dưới gốc cây cổ thụ, cả nhóm thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao hay thấp. Một số cho rằng chỉ có cách trèo lên ngọn cây rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh nói không cần.

Lương Thế Vinh lấy chiếc gậy đo xem dài ngắn bao nhiêu, rồi dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đoạn, ông đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính đã tìm ra chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả đúng như Vinh đã tính.

"Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh áp dụng chắc học sinh không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỷ thì việc Lương Thế Vinh tính được tỷ lệ chiều cao của cây và chiếc gậy bằng tỷ lệ bóng của chúng trên mặt đất là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỷ 15 đã có nhà toán học đầy tài năng", tác giả Quốc Chấn viết trong cuốn Thần đồng xưa của nước ta.

 


Ảnh mình họa: trạng Lương Thế Vinh. (Nguồn: Sưu tầm)

Học giỏi có tiếng, Lương Thế Vinh tham dự khoa thi Quý Mùi (1463) dưới thời vua Lê Thánh Tông và đỗ ngay trạng nguyên. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép năm đó có tới 4.400 người dự thi, lấy đỗ 44 người. Phấn khởi trước thắng lợi của khoa thi khi mình mới lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã ban lá cờ khoa, tự tay đề ba vị khoa khôi thành một bài thơ: Trạng nguyên Lương Thế Vinh/ Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh/ Thám hoa Quách Đình Bảo/ Thiên hạ cộng tri danh.

Sau khi đỗ đạt, Lương Thế Vinh ra làm quan 32 năm, nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ông làm ở Viện hàn lâm, được thăng đến chức cao nhất trong viện. Ông thường khuyên vua chọn người hiền tài, đặt quan chức để "vì dân mà làm việc", nhà vua và triều đình phải "đồng tâm nhất thể"; đồng thời cũng khuyên vua xử tội các quan lại làm sai.

Lương Thế Vinh còn được vua giao soạn nhiều biểu sớ quan trọng liên quan đến ngoại giao với nhà Minh. Trong lần làm sứ nhà Thanh, Chu Hy phải thán phục tài năng tính toán của ông. Lần đó, Chu Hy yêu cầu quan trạng cân trọng lượng của một con voi rất to. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên.

Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục, nhưng tiếp tục đố Lương Thế Vinh đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ quyển sách. Vị quan nhà Lê trả lời rằng chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra. Sứ nhà Thanh khi đó đã phải thốt lên: Nước Nam quả có lắm người tài.

Ngoài việc triều chính, Lương Thế Vinh tham gia dạy học ở Quốc Tử Giám, Sùng Văn Quán và Tú Lâm cục - những trường cao cấp đào tạo nhân tài cho đất nước thời bấy giờ.

Quan điểm giáo dục của thầy giáo có nhiều trò giỏi

Trong cuốn Những người thầy trong sử Việt, tác giả Nguyễn Huy Thắng viết Lương Thế Vinh là "người thầy khác mọi thầy". Tác giả cho rằng quan điểm giáo dục của thầy giáo Lương Thế Vinh không giống những bạn đồng liêu. Bằng kinh nghiệm, ông chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí thoải mái, gần gũi với người dân, hòa mình với thiên nhiên và phải tìm mọi cách vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.

Trong số các chế, biểu dâng lên vua, nhiều lần ông mạnh dạn đề xuất những cải cách về học hành, thi cử, đưa việc học xuống tận thôn dân, không ưu đãi các quan lại đương chức trong việc thi cử để chọn đúng kẻ thực tài, quan tâm đến việc dạy đạo đức và những tri thức khác có ứng dụng trong thực tế.

Với quan niệm "Thần cơ diệu toán vạn niên sư" (ai tính toán giỏi là người thầy muôn đời), Lương Thế Vinh đã dành nhiều tâm huyết để biên soạn cuốn Đại thành toán pháp. Đây là cuốn sách toán học cổ, bằng chữ Nôm, nội dung nói về kiến thức số học, có bảng cửu chương, phép tính nhân, phép bình phương (khai căn), đồng phân (chia đều); phương pháp đo lường bóng (phương pháp tam giác đồng dạng); hệ thống đo lường (cách cân, đong, đo, đếm...); cách đo điền, đo diện tích hình vuông, chữ nhật, tam giác, hình tròn…

Ở mỗi phần, mỗi phương pháp, Lương Thế Vinh đề một bài thơ cho người đọc dễ thuộc, dễ nhớ. Ví dụ, khi dạy cách tính diện tích hình thang, ông viết "Tam giác bị cụt đầu/ Diện tích tính làm sao/ Cạnh trên cạnh dưới cộng vào/ Đem nhân với nửa bề cao khắc thành. Cuốn sách của Lương Thế Vinh không chỉ nổi tiếng khắp trong nước mà còn vang danh ở cả nước ngoài.

Ngoài viết sách toán, Trạng nguyên của triều Lê còn là tác giả của Hý phường phả lục nêu những nguyên tắc có tính lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống.

Trong thời gian dạy học của mình, Lương Thế Vinh có nhiều học trò đỗ đạt cao như Trần Tất Đạt - tiến sĩ năm 1469, Trần Bích Hoành - thám hoa năm 1478, Trần Xuân Vinh - tiến sĩ năm 1499 và đặc biệt là Lương Đắc Bằng - thầy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông luôn được học trò quý mến và kính trọng.

Ông trạng đa tài Lương Thế Vinh mất năm 1495 tại quê nhà, thọ 54 tuổi. Vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc, làm một bài thơ Nôm gửi về phúng điếu. Câu cuối, nhà vua ai oán than "Lấy ai làm Trạng nước Nam ta"?

"Hẳn rồi, ý nhà vua muốn nói Lương Thế Vinh đã đi xa, liệu tìm đâu được ai xứng đáng làm Trạng nước Đại Nam này nữa? Nhưng tại sao không thể hiểu rằng, không còn ông nữa, biết lấy ai làm (đào tạo) ra được những người tài giỏi, những ông nghè, ông trạng như ông từng làm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp", tác giả Nguyễn Huy Thắng đặt câu hỏi trong cuốn sách của mình.

Quan điểm giáo dục và những đóng góp của Lương Thế Vinh được người đời ghi nhận. Ngày nay, nhiều đường phố, trường học được đặt theo tên của người thầy giáo mẫu mực này. Đền thờ Lương Thế Vinh tại huyện Vụ Bản (Nam Định) năm 1990 đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia.

Mở rộng

Trạng Lường Lương Thế Vinh và câu chuyện đo độ dày 1 tờ giấy

Trạng Lường Lương Thế Vinh vang danh muôn thủa với tài trí hơn người thông qua nhiều giai thoại như câu đố cân voi, đo độ dày của một tờ giấy.

Trạng Lường Lương Thế Vinh: Ông Trạng toán đa tài với đầy giai thoại kỳ lạ

Canh Hoạch: Ngôi làng có hai cậu cháu đỗ Trạng nguyên, làm rạng danh sử sách

Vị Trạng Nguyên thông minh nhất lịch sử Việt Nam và những giai thoại có 1-0-2

Trạng Lường Lương Thế Vinh là một trong những vị trạng nguyên nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa cử nước ta với khả năng toán học đại tài.

Theo Danh nhân Hà Nội, Lương Thế Vinh sinh năm 1441 tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).

Thuở nhỏ, ông đã nổi tiếng học nhanh, sáng trí, sáng tạo trong việc học và chơi. Lần nọ, Vinh cùng bạn bè ngồi chơi dưới gốc cổ thụ. Cả bọn thách đố nhau đo chiều cao của cây.

Thay vì trèo lên cây như lời đề nghị của một người, Lương Thế Vinh lấy một cây gậy, đo chiều dài của nó rồi dựng gậy trên mặt đất, đo chiều dài bóng gậy. Sau đó, ông tiếp tục đo bóng cây. Tính nhẩm một lát, Vinh đưa ra kết quả.

Đám bạn không tin bèn dùng dây thừng đo lại, được kết quả đúng như của Vinh. Họ không khỏi thán phục.

Một lần khác, khi Lương Thế Vinh cùng bạn chơi bóng, quả bưởi làm bóng rơi xuống hố. Cả bọn loay hoay, không làm thế nào lấy lên được. Ông nghĩ ra cách đổ nước vào hố để quả bưởi nổi lên.

Chân dung quan trạng Lương Thế Vinh. Đền thờ ông hiện đặt tại xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, Nam Định.

Nhờ tài toán học, Lương Thế Vinh không ít lần giúp những người xung quanh giải quyết các vấn đề khó khăn. Có lần, ông đến một khúc sông, thấy mấy người đang tìm cách đo chiều rộng của con sông để bắc cầu. Hôm đó, nước sông rất to và chảy xiết, họ không thể bơi qua.

Ông bèn đề nghị mọi người không bơi qua sông mà tìm cho ông mấy cái cọc. Ban đầu, mấy người này không tin nhưng khi thấy Vinh đóng cọc, ước lượng khoảng cách rồi tính nhẩm và công bố chiều rộng con sông, họ hoàn toàn thán phục tài năng của chàng trai trẻ.

Trên thực tế, Lương Thế Vinh sử dụng kiến thức về tam giác đồng dạng để tính khoảng cách giữa hai bờ sông.

Với tài trí hơn người, Lương Thế Vinh nhanh chóng nổi tiếng học giỏi khắp vùng Sơn Nam. Vì thế, người ta thường so sánh ông với Quách Đình Bảo, cũng là một người thông minh, đĩnh đạc trong vùng.

Cùng dùi mài kinh sử nhưng hai ông có phương pháp học hoàn toàn trái ngược nhau. Trong khi Bảo ngày đêm vùi đầu khổ luyện, Vinh lại chơi nhiều hơn học,

Tương truyền, trước kỳ thi Đình, Lương Thế Vinh sang làng của Quách Đình Bảo, định bàn chuyện cùng về kinh ứng thí. Khi nghỉ ngơi tại quán nước đầu làng, nghe người dân kể chuyện Bảo học quên ăn quên ngủ, ông quyết định quay về, thầm không tán thành cách học của Bảo.

Quả nhiên, năm 1463, dưới thời vua Lê Thánh Tông, Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên trong khi Quách Đình Bảo đỗ thám hoa. Khi đó, chàng trai làng Cao Hương mới 22 tuổi.

Là người quang minh, lỗi lạc lại tài trí, Vinh được triều đình trọng dụng. Ông giữ nhiều chức quan quan trọng trong Hàn lâm viện, đồng thời là một trong số 28 thành viên của hội thơ Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông thành lập.

Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất của ông cho nước nhà lại thuộc về lĩnh vực Toán học.

Theo Danh nhân đất Việt, khi sứ thần nhà Minh sang thăm nước ta, vua cử Lương Thế Vinh ra tiếp đón. Dù đã biết tiếng vị trạng nguyên, sứ thần vẫn tìm cách làm khó.

Trong một buổi đi chơi thuyền, ông ta thách đố quan trạng cân thử con voi nặng bao nhiêu. Vinh thản nhiên nhận lời rồi sai người dắt voi xuống thuyền, đánh dấu mức thuyền chìm trong nước. Xong xuôi, ông bảo dắt voi lên, chất đá xuống, nước ngập đến chỗ đánh dấu thì dừng.

Sau đó, ông cho người chia nhỏ số đá, cân lên và tính tổng. Kết quả khiến sứ thần phục lăn nhưng vẫn không bỏ ý định thử tài trạng. Ông ta xé một tờ giấy, yêu cầu Lương Thế Vinh đo độ dày của nó.

Trước tình huống khó xử này, ông vẫn ung dung nghĩ ra cách. Ông mượn viên sứ quyển sách, dùng thước đo độ dày cả quyển rồi chia với số trang để tính độ dày tờ giấy. Sứ thần nhà Minh hết sức bội phục trí tuệ linh hoạt của vị quan đất Việt.

Với tài năng toán học xuất sắc, Lương Thế Vinh được dân gian gọi là Trạng Lường. Ông cũng tổng kết kiến thức, viết nên cuốn Đại thành Toán pháp. Cuốn sách này được đưa vào chương trình thi cử suốt 450 năm trong lịch sử giáo dục Việt Nam.

Ông cũng nổi tiếng với tài văn thơ, đối đáp và rất vừa ý nhà vua. Năm 1496, Lương Thế Vinh qua đời. Vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc bèn viết bài thơ khóc Trạng:

Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua
Gióng khách chương đài kiếp tại nhà
Cẩm tú mấy hàng về động ngọc
Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa
Khí thiên đã lại thu sơn nhạc
Danh lạ còn truyền để quốc gia
Khuất ngón tay than tài cái thế
Lấy ai làm Trạng nước Nam ta.

Nguồn vnexpress.net