Hoàng Ngũ Phúc - vị quan đặc biệt
Trong lịch sử Việt Nam, Hoàng Ngũ Phúc- vị quan đặc biệt. Ngoài Lý Thường Kiệt, có lẽ chỉ có Hoàng Ngũ Phúc là tướng xuất thân từ hoạn quan có tài kiêm văn võ và có nhiều quân công nhất.
Sinh từ Hoàng Ngũ Phúc tại Bắc Giang.
(Nguồn: Sưu tập)
Con nuôi Thượng thư(Nguồn: Sưu tập)
Hoàng Ngũ Phúc hay Hoàng Ngũ Phước (1713 – 1776) là danh tướng thời Lê trung hưng; sinh tại xóm Gianh, thôn Khang Cù, xã Phụng Công, huyện Yên Dũng (nay là thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) trong một gia đình nông dân nghèo, mồ côi cha từ nhỏ và được người cậu ruột nhận nuôi.
Sinh thời Hoàng Ngũ Phúc đã được đánh giá là người nổi tiếng thông minh hay có những ý tưởng độc đáo, làm người xung quanh bất ngờ.
Chuyện kể rằng, thuở nhỏ Hoàng Ngũ Phúc hay cầm đầu bọn trẻ chăn trâu ở quê nhà, chơi trò bài binh bố trận. Ông thường lấy đất sét nặn voi, bốn chân voi được đặt trên mai bốn con cua đồng, lấy con đỉa trâu làm vòi voi và tai voi bằng hai con bướm lớn. Khi con voi chuyển động, ngoe nguẩy cái vòi, vẫy tai tiến ra trận, trông rất hiên ngang.
Lúc bấy giờ ở làng Vân Cốc (Bài Xanh, Yên Dũng, Bắc Giang), dòng họ Dương là một dòng họ có thế lực trong triều Lê – Trịnh ở Thăng Long, trong đó có Thượng thư bộ binh Dương Quốc Cơ.
Tương truyền, trong một lần trên đường kinh lý về quê, Thượng thư Dương Quốc Cơ thấy một đứa trẻ chơi trò trận mạc, đang điều khiển một đàn voi đất, “tả xung hữu đột, hò hét vang trời”.
Điều lạ là đứa trẻ đi đến đâu là có mây hồng che đến đấy. Thượng thư thấy lạ và nghĩ, đứa trẻ này tất sẽ làm nên nghiệp lớn nên đã nhận làm con nuôi, cho ăn học rồi cho theo vào kinh. Đứa trẻ đó chính là Hoàng Ngũ Phúc.
Có thể nói rằng, việc được Thượng thư Dương Quốc Cơ nhận làm con nuôi, chính là một dấu mốc quan trọng đầu tiên trong cuộc đời vị danh tướng Hoàng Ngũ Phúc. Bởi lẽ, chính vị Thượng thư này đã mở cho ông cánh cửa để tiến thân, nhập triều.
Dựa vào các căn cứ đã nêu thì có thể đoán rằng, Hoàng Ngũ Phúc tự nguyện tịnh thân (tự thiến) như một cách thức để nhập triều, xem ra là đúng. Vì thế, có thể đoán rằng, chính Dương Quốc Cơ là người định hướng cho ông làm hoạn quan và trực tiếp đưa ông vào hầu hạ trong Phủ chúa.
Vay tiền tuyển mộ tráng sĩ
Sự nghiệp võ quan của Hoàng Ngũ Phúc bắt đầu được sử sách ghi nhận khi ông dâng 12 điều binh pháp lên chúa Trịnh Doanh và được chấp nhận.
Sách “Đại Việt sử ký tục biên” chép: Khi Trịnh Doanh lên ngôi, các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài bùng nổ khắp nơi. Trong lúc triều đình lo việc đánh dẹp, thì tháng 12 năm 1743, Hoàng Ngũ Phúc dâng 12 điều về binh pháp lên chúa Trịnh. Trịnh Doanh biết ông là người có tài đã bằng lòng cho đem thi hành rồi sai ông thống lĩnh kì binh đạo Hải Dương.
Tuy nhiên, khi nghe mệnh lệnh của chúa, Hoàng Ngũ Phúc rất lo sợ vì từ trước tới giờ chưa từng chiến trận, binh đao…
Lúc ấy có người khách khuyên rằng: “Tướng công nên vay một vạn quan tiền trong kho công của nhà nước để mộ lấy những tay tráng sĩ cho mình”.
Thấy Hoàng Ngũ Phúc còn đắn đo, lo vay tiền công sau này không có tiền trả nợ, người khách tiếp: “Tục ngữ có câu rằng: “Tướng vô tài, sĩ bất lai”, nghĩa là người làm tướng mà không có của cải, thì không bao giờ dũng sĩ tìm đến. Nếu như Tướng công thật lòng theo kế sách của tôi, thì những tráng sĩ đều hết sức vì Tướng công mà quyết thắng địch. Thắng rồi Tướng công đã “sang” lại còn “giầu”, có lo gì cái món tiền vạn quan? Còn như, nếu nhỡ bị sa cơ đến chỗ không thể nói được nữa thì còn ai nỡ trách cứ món nợ. Mà trách cứ vào đâu được chứ?
Hoàng Ngũ Phúc cho là phải bèn theo. Vay tiền tuyển mộ tráng sĩ, hợp quân với Hoàng Công Kỳ (cũng là một hoạn quan có tiếng cùng thời với Hoàng Ngũ Phúc) đánh tan quân của “phản loạn” Nguyễn Hữu Cầu. Kể từ đó, sự nghiệp quân sự của ông liên tục “gặt hái” được những thành công vang dội.
Hoàng Ngũ Phúc làm tướng nghiêm túc, cẩn trọng, có uy tín. Khi lâm trận, là người quả đoán, nhiều mưu kế. Ông còn là người biết ứng xử, tiến lui đúng lúc không chỉ trong chính trường mà cả ngoài chiến trường, không mang dã tâm.
Ban thờ Hoàng Ngũ Phúc.
(Nguồn: Sưu tập)
(Nguồn: Sưu tập)
Vượt Lũy Thầy, quân không mất một người
Năm 31 tuổi (1744), Hoàng Ngũ Phúc giữ chức trấn thủ Hải Dương, rồi Kinh Bắc, kiêm thống lĩnh Bắc đạo, Tả đô đốc, tước hiệp Quận công.
Chỉ chưa đầy một năm, ông đã thống lĩnh quân, dẹp yên loạn Đông, Nam, Bắc. Năm 37 tuổi (1750), ông làm Tổng tư lệnh Bình Tây. Sau 43 ngày, ông bắt sống thảo khấu Nguyễn Danh Phương dâng nộp, khi bình công đứng thứ nhất, được gia phong Đại tư đồ kiêm trấn thủ Sơn Nam, Hải Dương.
Ông được sử sách khen ngợi là: “Tính cẩn thận, chắc chắn, có trí mưu”. Khi trấn thủ Sơn Nam, Hải Dương, ông có công giúp triều đình mở nước sinh dân, đưa đất nước thịnh trị hơn mọi triều đại trước. Đối với bên ngoài thì bốn nước xung quanh phải phụ thuộc, ngoại xâm không dám nhòm ngó.
Hoàng Ngũ Phúc xin cáo quan năm 1774, tuy nhiên cùng năm đó lại được mời ra giúp việc nước, thống lĩnh đại quân, được phép “Tùy nghi hành sự” đem quân đi bình định vùng đất Thuận – Quảng.
Chiến tích lớn nhất trong đời binh nghiệp của ông là vượt Lũy Thầy (chiến lũy mà trong hơn 200 năm trước đó, quân Lê – Trịnh không thể phá nổi) mà đạn không tốn một viên, quân không mất một người.
Ông đem quân vào lấy Phú Xuân, thu giang sơn về một mối, được phong Bình Nam Thượng tướng kiêm Đại Thống soái đất Thuận – Quảng. Ông mất trên binh thuyền khi quân Trịnh rút về đến Vĩnh Dinh, trấn Nghệ An, thọ 64 tuổi.
Tiến lui đúng lúc
Trong lịch sử Việt Nam, ngoài Lý Thường Kiệt, có lẽ chỉ có Hoàng Ngũ Phúc là tướng xuất thân từ hoạn quan có tài kiêm văn võ và có nhiều quân công nhất.
Tuy nhiên, do thành tích của ông chỉ trong nội chiến, còn Lý Thường Kiệt lập công trong chống ngoại xâm nên Lý Thường Kiệt nổi tiếng hơn ông.
Hoàng Ngũ Phúc làm tướng nghiêm túc, cẩn trọng, có uy tín. Khi lâm trận, là người quả đoán. Những người trưởng thành dưới tay ông như Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh sau đều là những người nổi tiếng, ngang dọc thiên hạ, nhưng đều không được trọn vẹn như ông.
Sở dĩ ông được trọn vẹn toàn danh, ngoài hoàn cảnh khách quan (khi thế nước Đàng Ngoài còn mạnh) còn do ông là người biết ứng xử, tiến lui đúng lúc không chỉ trong chính trường mà cả ngoài chiến trường, không mang dã tâm như các hoạn quan Triệu Cao đời nhà Tần, Nguỵ Trung Hiền đời nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc; bản tính ông khiêm tốn, thành thực đối đãi với người khác hết lòng trung tín, thưởng phạt quân sĩ nghiêm minh.
Là người cầm quân dày dặn hơn 30 năm ngoài chiến trận, có lẽ hơn ai hết ông tự hiểu sức quân Trịnh khi tiến vào tới Quảng Ngãi như dây cung đã trương hết cỡ, không thể cố giành đất phương Nam, vì thế ông chủ động nhường Quảng Nam cho Tây Sơn, hy vọng làm thoả mãn đội quân này…
Không chỉ là người có công ổn định tình hình Bắc Hà, Hoàng Ngũ Phúc còn có công mở mang đất đai Bắc Hà xuống phía Nam, lần đầu tiên đánh bật chúa Nguyễn khỏi đất Thuận – Quảng, khôi phục lại cương thổ nhà Hậu Lê như thời Lê Sơ, điều mà bao thế hệ chúa Trịnh trước chưa làm được.
Nhưng dường như cũng chỉ có ông là người hiểu mình và hiểu người, biết lui tiến ngoài mặt trận. Sau khi các tướng thế hệ ông và Bùi Thế Đạt mất, cha con chúa Trịnh quá say sưa vì chiến thắng, sinh kiêu ngạo, các tướng kế tục buông lỏng việc quân cơ nên không giữ được cương thổ ông đã mở mang và cơ đồ họ Trịnh tiêu tan nhanh chóng.
Ít ra Bắc Hà sẽ được bảo tồn lâu hơn. Một khi Tây Sơn không đánh chiếm được Bắc Hà, sẽ không phải phân tán lực lượng ra Bắc và khó có thể khẳng định họ Nguyễn còn cơ hội phục hồi ở Nam Bộ hay không.
Hoàng Ngũ Phúc – vị tướng chưa hề biết bại. Tuy xuất thân thái giám nhưng công danh, sự nghiệp của ông thì nhiều người đỗ đạt khoa bảng chưa chắc đã bằng. Suốt mấy chục năm chinh chiến đánh đông dẹp bắc ông đã góp phần giữ được cơ nghiệp cho chúa Trịnh.
Cái chết được báo trước
Đầu năm 1776, quân Trịnh bắt đầu rút về Bắc. Khi binh thuyền đến Vĩnh Dinh, trấn Nghệ An thì Hoàng Ngũ Phúc mất. Hôm đó là ngày 17 tháng Hai (tức 6/3/1776).
Tin ông mất làm chúa Trịnh rất đỗi thương khóc. Sách Đại Việt sử ký tục biên, chép: “Tin về đến Kinh, chúa Trịnh thương khóc mãi không thôi. Nghỉ chầu 3 ngày; sai đem 5 thuyền đến hộ tang về Bắc an táng; cho tên thụy là Trung Chính; cấp cho tiền thuế 5 xã, mỗi năm 1.000 quan để thờ cúng. Gia phong là Ưu vọng tài trí thượng đẳng phúc thần, lại cho thờ phụng ở miếu đình.
Xung quanh cái chết của Hoàng Ngũ Phúc có một giai thoại ly kỳ. Sách Kể chuyện các quan thái giám trong lịch sử Việt Nam nói rằng: “Tương truyền, Hoàng Ngũ Phúc cùng đại binh kéo xuống phía Nam. Mới vào đất Phú Xuân, một gã quần áo bẩn thỉu tiến lại, túm lấy càng xe của Hoàng Ngũ Phúc mà rằng: Tướng quân, ngài đi vào ngày hôm nay sẽ gặp sự chẳng lành. Ngài nên dẫn đại binh quay về thì hơn. Hoàng Ngũ Phúc tức giận sai quân lôi gã này đi chỗ khác.
Binh lính xúm vào xốc nách lôi người kia đi. Nhưng dù bị lính kéo lôi đi, tên kia vẫn ngoái đầu lại nói thêm: Ngài quan thị, nếu ngài không nghe lời ta thì cứ chờ đến ngày 18 sẽ rõ.
Sau này, khi Hoàng Ngũ Phúc ngã bệnh, trong quân liền truyền tai nhau câu chuyện này và tiên đoán ông sẽ chết vào ngày 18. Quả nhiên Hoàng Ngũ Phúc chết đúng ngày ấy, ai cũng lắc đầu lè lưỡi, vô cùng sợ hãi.
Vị tướng chưa hề biết bại
Hoàng Ngũ Phúc tuy xuất thân thái giám nhưng công danh, sự nghiệp của ông thì nhiều người đỗ đạt khoa bảng chưa chắc đã bằng. Suốt mấy chục năm chinh chiến đánh đông dẹp bắc ông đã góp phần giữ được cơ nghiệp cho chúa Trịnh khỏi bị diệt vong trong những làn sóng khởi nghĩa nông dân.
Chỉ 10 năm sau ngày ông mất, cơ nghiệp chúa Trịnh không còn tướng tài chống giữ đã bị Tây Sơn dẹp tan. Trong thời đại nhiễu nhương như thời Vua Lê -chúa Trịnh, thật khó để nói ai là chính đạo ai là ngụy. Tuy nhiên, xét cái đạo trung thành với chủ thì công lao của Hoàng Ngũ Phúc với họ Trịnh thật là to lớn vậy.
Đánh giá về sự nghiệp của Hoàng Ngũ Phúc, nhà sử học Lê Văn Lan nhận định: “Trong hơn 30 năm binh nghiệp của danh tướng Hoàng Ngũ Phúc, chúng ta thấy gồm một chuỗi các hoạt động quân sự, đến 26 sự kiện. Trải qua hàng loạt sự kiện đó, chúng ta thấy rằng, trước hết ông là một vị tướng chưa hề biết bại là gì. Điều này thể hiện tài năng quân sự đã đành, nhưng điều quan trọng hơn, nó thể hiện tư chất đặc biệt của một vị võ tướng từ tư duy chiến thuật, chiến lược, cách thức đánh trận rất quyết liệt, thông minh của vị tướng vốn sinh ra là để đánh trận”.
PGS, TS Lâm Bá Nam (Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội) cho biết: “Xét về góc độ sử học, lại đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể thời Lê – Trịnh, chúng ta thấy ông là một vị quan đặc biệt. Xuất thân lập nghiệp từ một hoạn quan nhưng Hoàng Ngũ Phúc lại được xếp vào hạng danh sĩ văn võ toàn tài. Trong bối cảnh khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam, tôi gọi ông, cũng như Hồ Quý Ly là những con người không thuận chiều trong tiến trình phát triển”.
Nguồn: Khoahocdoisong.vn