256 lượt xem

Lê Thái Tông - Kỳ 2

Hoàng đế đa tình và những bà hoàng có số phận đặc biệt

Lê Thái Tông có nhiều vợ trong đó có 5 người vợ được chính thức sắc phong là: Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh, Ngô Thị Ngọc Dao, Lê Ngọc Dao, Lê Nhật Lệ. Trong số năm bà nói trên, Dương Thị Bí là người sinh con trai sớm hơn cả.

Con trai đầu của bà là hoàng tử Lê Nghi Dân, sinh tháng 6/1439. Sử sách chép rằng, khi bà phi Dương Thị Bí sinh hoàng tử trưởng Nghi Dân, vua Lê Thái Tông ngày càng yêu chiều bà hết mực. Địa vị của bà, tuy không phải là chủ nhân hậu cung, nhưng uy quyền chẳng thua kém.

Bà đòi gì, vua cũng ban cho. Vua Lê Thái Tông rất mê đắm sắc đẹp của Dương Thị Bí và cưng chiều bà nhất trong số tất cả cung tần mỹ nữ ở chốn hậu cung. Vì thế, nghe tin mừng của Dương Thị, vua Lê Thái Tông hết sức vui mừng. Chỉ 3 tháng sau, nhà vua tuyên bố Lê Nghi Dân trở thành thái tử.

Trong sách “Hoàng hậu, hoàng phi Việt Nam” có viết: “Nhà vua đặt tên cho hoàng nam là Nghi Dân và quyết định chọn làm thái tử. Dương Thị mừng lắm và rất hãnh diện, tự đắc là từ nay không còn ai dám ganh đua với bà nữa.


Khi con bà lên ngôi, ngày ấy bà sẽ là mẫu nghi thiên hạ thì ngôi hoàng hậu có ý nghĩa gì? Bà tin rằng, nhà vua càng phải yêu quý chiều chuộng mẹ con bà hơn. Bao nhiêu lần bà thử nhõng nhẽo đòi hỏi, yêu sách thì Thái Tông đều chiều ý.

Dần dần, Dương Thị nghĩ số mệnh bà cao quý, nên đương nhiên coi mọi người phải quỳ dưới chân bà. Trước kia, mỗi lần gặp hoàng hậu, bà đều phải cúi lạy; nay bà lờ đi; còn với các cung tần khác, bà tỏ thái độ hạ cố...”.

Do quá được sủng ái và tự mãn, nên Dương Thị trở nên cao ngạo vô lễ với mọi người, không phân biệt thứ hạng. Vì thế, làn sóng ngấm ngầm phản đối bà ngày càng lớn.

Một hôm, nhân cớ Hoàng đế Lê Thái Tông bị bà tỏ thái độ hờ hững, bực bội ra về thì những người ghen ghét, gồm Nguyễn hoàng hậu và một số phi tần đã kéo đến trước nhà vua khóc lóc.

Những người này kể tội Dương Thị là: không giữ nề nếp, nghi thức cung đình đến có những hành động khinh thường hoàng hậu... hoàng đế.

Vậy là, Dương thị bị giáng xuống làm Chiêu nghi. Sách “Đại Việt sử kí toàn thư” có ghi rằng: “Trước đây, Dương Thị Bí sinh con là Nghi Dân, đã được nhà vua sách phong làm thái tử. Dương Thị Bí từ đó cậy thế mà kiêu căng, lăng loàn quá lắm.

Vua vẫn cố nhịn bao dung, chỉ giáng (Dương Thị Bí) xuống hàng Chiêu Nghi (hàng thấp trong thứ bậc của vợ vua) cốt cho thị sửa lỗi, nhưng Dương Thị Bí lại lấy đó làm sự hằn học, chẳng chịu kiêng nể gì nữa.

Nhà vua nghĩ rằng Dương Thị Bí đã quyết làm như vậy thì đứa con do bà đẻ ra chưa hẳn sẽ thành người khá, bèn giáng bà xuống làm thứ nhân, xong, xuống chiếu cho thiên hạ biết là ngôi thái tử chưa định”.

 

Điện thờ bà Ngô Thị Ngọc Dao
(Nguồn: Sưu tập)
 

Cũng vào thời điểm này, vua Lê Thái có thêm các bà phi khác và có thêm con trai. Vào năm 1441, một bà phi sinh cho vua hoàng tử thứ hai là Lê Khắc Xương. Cùng năm, bà phi Nguyễn Thị Anh cũng sinh được Lê Bang Cơ.

Nguyễn Thị Anh nguyên là vợ thứ tư của vua Lê Thái Tông. Bà là người xã Bố Vệ huyện Đông Sơn, Thanh Hóa (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa).

Bà vào cung làm vợ vua Lê Thái Tông, trong khi Lê Thái Tông đã có bà phi Dương Thị Bí sinh được con cả Lê Nghi Dân, lập làm thái tử. Từ khi gặp bà, vua Thái Tông liền sủng ái, phong bà làm Thần phi.

Khi Dương thị bị phế truất Dương phi xuống làm Chiêu nghi và thái tử Nghi Dân làm Lạng Sơn vương thì vua Lê Thái Tông cũng lập Nguyễn Thị Anh làm Hoàng hậu và Bang Cơ làm thái tử.

Ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đột ngột qua đời tại nhà đại thần Nguyễn Trãi ở Lệ Chi Viên khi mới 20 tuổi.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng thái tử Lê Bang Cơ không phải là con vua Lê Thái Tông. Bởi Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông.

Trước khi vào cung làm vợ Thái Tông, bà đã gian díu với Lê Nguyên Sơn, một người thuộc chi dưới của Lê Khoáng - ông nội Thái Tông.

Từ khi bà gặp Thái Tông tới khi sinh Bang Cơ, thời gian chỉ có 6 tháng. Một số nhà nghiên cứu cũng cho rằng chính Nguyễn Thị Anh là người chủ mưu sát hại vua Thái Tông.

Chuyện là cùng lúc đó, một bà phi khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh. Ngô Thị Ngọc Dao là vợ thứ năm của vua Lê Thái Tông, là mẹ của Lê Thánh Tông, cô của nữ sĩ Ngô Chi Lan, thuộc nhà Hậu Lê, Việt Nam.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thì Ngô Thị Ngọc Dao người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa - nay là xã Định Hoà, huyện Yên Đinh, tỉnh Thanh Hóa.

Ông nội bà tên Ngô Kinh, là gia thần của Lê Khoáng (cha Lê Thái Tổ), về sau được phong Thái phó. Cha bà tên Ngô Từ, là gia thần của Lê Thái Tổ, được phong Thái bảo, vì có công cung cấp quân lương, ngay trong những ngày đầu kháng Minh.

Nhờ có người chị tên Xuân, là cung tần của Lê Thái Tông nên bà Ngô Thị Ngọc Dao có dịp theo chị vào hậu cung chơi.

Nhà vua trông thấy, liền tuyển bà làm cung tần. Năm Canh Thân (1440), bà được phong làm Tiệp dư, ở cung Khánh Phương. Khi nghe Ngô Thị Ngọc Dao có thai, Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế, nên đã vu khống Ngọc Giao và xin Thái Tôn khép tội voi giày, nhưng nhà vua chỉ khép vào tội phát lưu (đày đi xa).

Biết chuyện, Nguyễn Trãi bàn với vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ, lúc này đang làm Lễ nghi học sĩ, vào xin vua cho đổi sang án giam, và được vua chấp thuận.

Nhờ vậy, mà Ngọc Dao chỉ bị giam ở chùa Huy Văn (nay là chùa Dục Khánh), ngõ Văn Chương, trong kinh thành Thăng Long. Ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), Ngô Thị Ngọc Dao sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành tại chùa này.

Do sợ Nguyễn Thị Anh tiếp tục ám hại nên Nguyễn Trãi cho người đưa mẹ con bà trốn biệt ra trấn An Bang, Quảng Yên, nay là một phần của Quảng Ninh.

Ngày 4 tháng 8 cùng năm trên, vua Thái Tông chết đột ngột ở vườn Lệ Chi, tục gọi là Trại Vải, ở làng Đại Lại, nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Một số nhà nghiên cứu cho rằng bà phi Nguyễn Thị Anh sợ chuyện bại lộ thì ngôi lớn sẽ thuộc về con bà Ngọc Dao nên tìm cách hại Ngô Thị Ngọc Dao.

Trong khi đó, Ngô Thị Ngọc Dao lại được vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che.

Vì thế, nhân dịp vua Thái Tông về thăm Nguyễn Trãi, sợ Nguyễn Trãi gièm pha mình và nói tốt cho Tư Thành nên bà sai người sát hại vua Thái Tông rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.

Trước khi qua đời, Nguyễn Trãi nói rằng ông hối hận không nghe lời hoạn quan Đinh Phúc và Đinh Thắng.

Nguyễn thái hậu ra lệnh giết tiếp 2 người này. Đinh Thắng là hoạn quan chịu trách nhiệm ghi chép ngày tháng thụ thai của các phi tần trong cung.

Vì 2 người này biết được bí mật của bà nên họ cũng bị trừ khử để diệt khẩu. Vua Thái Tông qua đời, đương kim thái tử Bang Cơ được các đại thần Trịnh Khả, Lê Thụ, Nguyễn Xí lập lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thái Hòa (1443-1453), tức là vua Lê Nhân Tông.

Lúc lên ngôi, vua con Nhân Tông mới lên 1 tuổi, thái hậu Nguyễn Thị buông rèm nghe chính sự. Thái hậu dùng phép sẵn có từ đời trước, được các đại thần đắc lực của tiên triều phò tá nên trong khoảng hơn 10 năm giúp vị vua nhỏ, cả nước bình yên.

Thái hậu Nguyễn Thị nhiếp chính giết oan hai công thần Trịnh Khả và Trịnh Khắc Phục năm 1451, nghe gièm pha cách chức Nguyễn Xí năm 1445, tới năm 1448 mới cho phục chức.

Năm 1453, vua con Nhân Tông lên 13 tuổi. Tháng 11 năm đó thái hậu Nguyễn Thị Anh rút vào hậu trường, giao lại triều chính cho con. Vua Nhân Tông không phải là con đích của vua cha nên anh cả là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân vẫn thường có lòng oán hận và muốn đoạt ngôi.

Theo “Đại Việt thông sử”, Nhân Tông nghĩ Nghi Dân là anh ruột nên không có ý đề phòng gì cả. Ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), Nghi Dân đang đêm cùng các thủ hạ bắc thang vào tận trong cung cấm giết vua Nhân Tông. Hôm sau thái hậu Nguyễn Thị Anh cũng bị hại. Năm đó bà 38 tuổi.

Trong chiếu lên ngôi, Lê Nghi Dân nêu lý do làm chính biến và những việc liên quan tới những việc Nguyễn thái hậu làm khi bà còn sống, trong đó có cả việc giết đại thần diệt khẩu trong thời gian nhiếp chính, được sử sách ghi chép lại như sau: “Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn Hoàng Đế, trước đây đã được giữ ngôi chính ở Đông cung. Chẳng may tiên đế đi tuần miền đông, bỗng băng ở bên ngoài.

Nguyễn Thái hậu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm vua, bắt trẫm làm phiên vương.

Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến cả Thái úy Trịnh Khả và Tư không Trịnh Khắc Phục, Thái hậu bắt giết cả đi để diệt hết người nói ra... Diên Ninh (tức Lê Nhân Tông) tự biết mình không phải là con của tiên đế...”

Nghi Dân lên ngôi, Tư Thành (khi 4 tuổi thì Tuyên Từ Thái hậu Nguyễn Thị Anh đón về cung cùng với mẹ) không bị vua anh sát hại, mà phải cải phong làm Cung vương.

Chín tháng sau, một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Ngày 8 tháng 6, năm Canh Thìn (1460), do đề nghị của 2 danh tướng trên, Lê Tư Thành lên ngôi, tức vua Lê Thánh Tông.

Và Ngô Thị Ngọc Dao trở thành Quang Thục Hoàng thái hậu. Về nơi mất và năm mất của Ngô Thị Ngọc Dao cho đến nay có hai nhóm tài liệu chứa đựng những thông tin rất khác nhau.

Nhóm thứ nhất, gồm các thư tịch cổ như “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Đại Việt thông sử”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ... đều cho rằng bà mất vào ngày 26 tháng 2 (nhuận) năm Bính Thìn (1496), thọ 75 tuổi.

Riêng “Đại Việt sử ký toàn thư” còn ghi rõ Thái hậu Ngọc Dao mất vào giờ Hợi, tức khoảng 21 giờ đến 23 giờ tối, vì bị cảm nặng sau khi về bái yết Lam Kinh (Thanh Hóa).

Còn “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Việt thông sử” thì chép bà mất vì bệnh kiết lỵ. Về nơi mất, những sách này đều viết bà mất ở điện Thừa Hoa, tức nơi ở của bà ở kinh đô Thăng Long.

Trong khi đó, nhóm tài liệu thứ hai, gồm 25 đạo sắc phong, gia phả họ Phan hiện còn lưu giữ ở xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh thì đều ghi Thái hậu Ngọc Dao mất ngày 25 tháng 3 năm Tân Mão (1471), khi mới 50 tuổi.

Nhà nghiên cứu công bố thông tin này cho biết: “Theo lời kể của người dân địa phương, thì vào năm 1471, sau khi cùng con là Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, về dọc đường, bị lâm bệnh nặng và mất tại cửa Sót (nay thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh).

Nhà vua đành phải mai táng mẹ tại trang Đồng Cần, xã Quang Chiêm (nay thuộc xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh).

Chẳng bao lâu sau, vua sai người chọn đất, cải táng hài cốt của bà về vị trí cũng gần đó. Trước khi trở về Thăng Long, vua Lê còn cấp trăm công đất cho cậu ruột (em Thái hậu Ngọc Dao) cùng năm người họ Phan, vốn là bà con bên ngoại của Thái hậu, ở lại canh tác, lấy hoa lợi, lo việc tế tự và trông coi mộ phần.

Kể từ đó, ở trang Đồng Cần mới có một chi họ Phan, mà nguồn gốc ở Thanh Hóa. Người dân ở trang Đồng Cần còn khẳng định rằng: Sát bên cạnh đền thờ, có một ngôi mộ cổ. Đấy mới thật là mộ của Thái hậu Ngọc Dao”.

Những tranh luận về lịch sử cho đến nay vẫn chưa có lời giải và đòi hỏi thời gian nghiên cứu. Tuy nhiên, về đánh gia chung, trong số những người vợ của vua Lê Thái Tông thì thái hậu Ngọc Dao là người đã hết lòng cùng con chăm lo cho giang sơn xã tắc, là một trong những chỗ dựa tin cậy của Hoàng đế Lê Thánh Tông.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” còn ghi rõ rằng chính bà là người đã không quản đường xá dặm dài, cùng Lê Thánh Tông tiến hành cuộc tấn công vào đất Chiêm Thành, cuối năm 1470, đầu năm 1471.

 
Ai là hung thủ giết hại vua Lê Thái Tông?

Vụ án Lệ Chi Viên xảy ra từ hơn 500 năm trước đã khiến vua Lê Thái Tông chết đột ngột ở tuổi 20 và cũng khiến người anh hùng Nguyễn Trãi phải chịu tru di tam tộc. Đó là vụ án oan và thảm khốc vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Án oan thảm khốc

Lịch sử ghi nhận, trong cuộc kháng chiến chống Minh, công lao của Nguyễn Trãi rất lớn. Mọi mưu kế, sách lược kháng chiến của nghĩa quân Lê Lợi đều do Nguyễn Trãi tính toán. Riêng về vấn đề thư từ qua lại với quân địch (ngày nay ta gọi là công tác địch vận), qua tập sách Quân Chung Từ Mệnh Tập của Nguyễn Trãi, học giả đời sau đều tán thán rằng, mỗi bức thư gửi đi có sức mạnh như cả ngàn vạn binh mã. Công lao đến như thế, nhưng khi kháng chiến thành công, nhà Lê thành lập thì Nguyễn Trãi lại dần dần bị triều đình hắt hủi vì ông thẳng tính, không chịu luồn cúi. Gần cuối triều vua Lê Lợi, Nguyễn Trãi từ quan về sống ở Côn Sơn. Tại đây ông đã viết bài thơ Côn Sơn Ca nổi tiếng.
 

Đền thờ vua Lê Thái Tông tại thị xã Sơn La. Nơi đây trong một lần đi đánh quân phản loạn, nhà vua đã dừng chân nghỉ ngơi và làm một bài thơ khắc vào vách đá ở cửa một hang động.
(Nguồn: Sưu tập)

 

Tuy nhiên, khi Lê Thái Tổ băng hà, Lê Thái Tông lên ngôi đã lại trọng dụng Nguyễn Trãi, cử ông làm quan phụ trách việc quân, dân, bạ tịch ở khu vực Đông Bắc. Nhưng cũng không ngờ rằng, chỉ một thời gian rất ngắn sau đó, tai họa lại giáng xuống đầu Nguyễn Trãi. Đại Việt sử ký chép về vụ án Lệ Chi Viên: “Tháng 8, ngày mồng 4, vua về đến vườn Lệ Chi huyện Gia Định (nay là huyện Gia Bình, Bắc Ninh) bỗng bị bệnh ác rồi băng. Trước đây vua thích vợ của thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người đẹp, văn chương hay, gọi vào cung cho làm lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh. Đến khi đi tuần miền Đông, về đến vườn Lệ Chi, xã Đại Lại trên sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng. Các quan bí mật đưa về, ngày mồng 6 đến kinh sư, nửa đêm đem vào cung mới phát tang. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua”.

Chỉ 12 ngày sau khi vua Thái Tông chết, cả ba đời nhà Nguyễn Trãi cũng bị tru di. Kế đó, đến ngày 9 tháng 9 giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì khi Nguyễn Trãi sắp bị tử hình có nói là hối hận không nghe lời của Thắng và Phúc. Điều khiến hậu thế thương cảm cho Nguyễn Trãi không chỉ vì ông bị oan mà còn vì ông bị chính cái triều đình mà ông góp công dựng nên khép tội. Trong triều đình lúc ấy, những nhân vật quyền thế như Lê Ngân, Lê Sát đều là bạn chiến đấu của ông từ ngày ở hội thề Lũng Nhai năm 1418. Mặc dù thế, không những Nguyễn Trãi mà cả ba họ liên quan đều bị giết theo. Thật là một sự tàn bạo, thảm khốc.

Đâu là hung thủ thật sự?

Mặc dù đến triều vua Lê Thánh Tông, nhà vua đã minh oan cho Nguyễn Trãi nhưng nhiều sách sử sau đời Lê khi viết về sự kiện Lệ Chi Viên vẫn ghi tội Nguyễn Thị Lộ giết vua. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chíkhẳng định rằng, Nguyễn Thị Lộ đã dùng thuốc độc giết vua: “Năm Nhâm Tuất (1442), ông (Nguyễn Trãi) 63 tuổi, vì có vợ tên là Nguyễn Thị Lộ vào hầu vua, dùng chất độc giết vua, triều đình kết án phải giết ba họ...Ông có văn chương mưu lược...làm công thần mở nước thứ nhất. Về già muốn an nhàn, không có ý tham luyến (địa vị), chỉ vì nghiệp báo của yêu nữ cuối cùng lụy đường công danh, bấy giờ ai cũng thương tiếc”.
 

Chân dung Nguyễn Trãi – Người anh hùng dân tộc và cũng là người mang nỗi oan ức lớn nhất thiên hạ.
(Nguồn: Sưu tập)
 

Cho đến gần đây, trong nỗ lực tìm hiểu để nhìn nhận khách quan sự kiện lịch sử này, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một câu chuyện hoàn toàn khác để minh oan cho vợ chồng Nguyễn Trãi. Theo đó, thủ phạm giết vua bất ngờ lại chính là vợ thứ vua Thái Tông – Nguyễn Thị Anh (mẹ vua Lê Nhân Tông).

Các nhà nghiên cứu: Phan Duy Kha, Đinh Công Vĩ, Lã Duy Lan trong cuốn sách “Nhìn lại lịch sử” cho rằng: trước khi vua Thái Tông mất đã truất ngôi thái tử của Nghi Dân (con của bà phi Dương Thị Bí) để phong cho Bang Cơ (con của bà phi Nguyễn Thị Anh). Tuy nhiên, lúc đó lại có nhiều lời đồn đại rằng, Bang Cơ không phải là con của vua Thái Tông. Mặt khác, bài học nhãn tiền, hoàng tử Nghi Dân vừa bị phế truất ngôi thái tử sau khi nhà vua chán bà phi Dương Thị Bí. Lo sợ nhà vua còn trẻ rồi sẽ còn tái diễn cảnh "có mới nới cũ" mà một bà phi khác là Ngô Thị Ngọc Dao cũng vừa sinh con trai xong.

Khi bà Ngô Thị Ngọc Dao (mẹ vua Lê Thánh Tông) mang thai đã bị bà Nguyễn Thị Anh tìm nhiều cách hãm hại nhưng vợ chồng Nguyễn Trãi hết lòng che chở cho. Vì những lý do đó, khi vua Lê Thái Tông đi tuần miền đông về nghỉ ở chỗ Nguyễn Trãi, bà Nguyễn Thị Anh đã sai người ra tay giết vua để đổ vạ cho Nguyễn Trãi nhằm trả thù và cũng để cho ngôi vua của con bà chắc chắn. Một mũi tên trúng hai đích. Đó là các lập luận của những nhà nghiên cứu trong thời gian gần đây.
 

Tượng Nguyễn Thị Lộ ở đền thờ bà tại quê hương Hưng Hà,Thái Bình.
(Nguồn: Sưu tập)
 

Không chỉ có vậy, các nhà nghiên cứu trên còn tham khảo cả cuốn gia phả của dòng họ Đinh, hậu duệ của Đinh Liệt. Trong đó đặc biệt có một số bài thơ nói về sự việc vua Thái Tông chết cũng như nguồn gốc của vua Nhân Tông:
 
Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa
Bất thức hà nhân chủng bảo đa
Chủ kháo Tống khai vi linh dược
Cựu binh tân tửu thịnh y khoa

“Nhung tân” đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ con Nguyễn Thị Anh, “thịnh y” là “thị Anh”.

Bài này có thể tạm dịch:
 
Nhân Tông sáu tháng đã ra hoa
Dòng máu ai đây quý báu à?
Núp bóng Thái Tông làm linh dược
Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha

Lại có một bài thơ khác nói về việc hai hoạn quan bị giết:
 
Hung Tân hà hữu Tống thai tinh
Lục nguyệt khai hoa quái dị hình
Niên nguyệt nhật thời Thăng Đính ký
Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh

Chữ Thăng Đính đọc ngược là Đinh Thắng, Tống Thai đọc ngược là Thái Tông. Bài thơ này dịch là:
 
Nhân Tông không phải máu Nguyên Long
Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng
Năm, tháng, ngày, giờ Đinh Thắng chép
Hoàng bào dơ bẩn tiếng ngàn năm

Từ trước khi có những lập luận như trên rất lâu, khi Nghi Dân cướp ngôi vua đã ban chiếu nói rằng: “Diên Ninh (Nhân Tông) tự biết không phải là con của tiên đế, vả lại lòng người lìa tàn, ngày mồng 3 tháng 10 năm nay khiến trẫm thay ngôi.” Tuy nhiên, vì Nghi Dân cướp ngôi vua và không được lòng các triều thần nên sau đó bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa phế bỏ cho nên điều Nghi Dân nói Nhân Tông không phải con của Thái Tông không được chú ý.
Vũ Tiến Đức

Nguồn: phunutoday.vn