225 lượt xem

Lê Văn Duyệt - kỳ 1

I. Thân thế & sự nghiệp

Lê Văn Duyệt (LVD) sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ, cạnh vàm Trà Lọt, nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang. Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi đi vào Nam sinh sống. Sau khi ông Hiếu qua đời , cha LVD là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào... rời Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.

Ông sinh ra đã mang tật kín bẩm sinh (ái nam ái nữ). Thuở nhỏ ít chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, nhất là việc nuôi gà, đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc. (Sau này, ông còn là người rất mê xem đấu hổ, đấu voi. Ngoài ra ông cũng là người sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu)

Tương truyền ông khỏe mạnh, thông minh, giỏi võ thuật, tuy không học nhiều, nhưng biết nhiều tuồng tích Tàu . Vì thế, ông luôn ước ao trở thành hào kiệt như trong truyện xưa miêu tả; mới 15 tuổi, LVD đã nói "sinh ở đời loạn, không dựng cờ đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu. "

Năm LVD lên 17 tuổi, một cơ may đến với ông là, đêm hôm đó chúa Nguyễn Phúc Ánh (NPA)  bị quân nhà Tây Sơn đuổi gấp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền của đối phương không đuổi kịp.

Tưởng vậy đã yên, nào ngờ khi vừa đến vàm Trà Lọt thì thuyền chở chúa  bị sóng lớn làm cho suýt chìm. LVD xuất hiện đúng lúc, cứu NPA thoát nạn. Biết là gặp dòng dõi chúa Nguyễn, cụ Lê Văn Toại hết sức cung kính, cho tất cả tạm trú ở đây, nhân đó ông được NPA tuyển dụng làm thái giám .

Ít lâu sau, LVD được phong làm cai cơ trông coi nội binh. Từ năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của chúa Nguyễn. Năm 1793, LVD  cùng với  NPA đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương.

Tháng 1 năm 1801 ông cùng chúa và các tướng lãnh khác như Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại), khiến quân Tây Sơn thua to.

Tháng 4 NPA đem thủy quân ra Đà Nẵng. Đến tháng 5 vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh  mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc.

Ngày 3 tháng 5, NPA đem binh vào thành Phú Xuân.  Tháng 5 năm 1802  chúa Nguyễn lên ngôi, chọn đế hiệu: Gia Long. Vua phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân  thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc.

Nhiều công lao lớn nên LVD được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần, với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy (nhập triều bất bái) và được đặc quyền chém trước tâu sau (tiền trảm hậu tấu) nơi biên thùy, nên sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng (MM) và đã giết Huỳnh Công Lý, cha một quí phi của ông vua này, vì tội tham nhũng.

Và, ông còn là người được vua Gia Long triệu vào cung hỏi ý kiến về việc chọn ngôi Thái tử. ). Tuy vua không nghe lời ông chọn con của Đông Cung Cảnh nối ngôi, thay vì hoàng tử Đảm (là vua Minh Mạng sau này), nhưng ông vẫn phò tá cho đến hết đời, mặc dù lòng không kính phục ông vua trẻ. Ngược lại, MM cũng không ưa gì ông nhưng vẫn phải dùng đến.

Năm 1823 ông được MM ân thưởng ngọc đái với lời dụ: "Từ xưa hoàng tử, chư công chưa ai được ân tứ ngọc đái này , nay khanh đã nhiều công lao nên đặc biệt ân tứ vậy."

Tả Quân LVD làm Tổng Trấn thành Gia Định hai thời kỳ:

Từ 1813 đến 1816 :Ông lãnh chức tổng trấn thành Gia Định, kiêm trông coi luôn cả Bình Thuận và Hà Tiên. Đến năm 1816 ông được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái Tử.

Lần thứ nhì từ năm 1820 cho đến khi mất(1832), Tả quân lúc bấy giờ rất uy quyền, lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là Ông Lớn Thượng, là Thượng Công. Đương thời, các nước lân cận đều sợ oai phong của ông nên ông còn có biệt danh khác là Cọp Gấm Đồng Nai, một trong ngũ hổ tướng (bốn người còn lại là Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn,  Nguyễn Huỳnh Đức và Trương Tấn Bửu).

LVD đã thành lập hai cơ quan từ thiện là "Anh hài" để rèn luyện võ nghệ cho trẻ thích việc kiếm cung và "Giáo dưỡng" để cho những trẻ khác và quả phụ học văn chương, nghề nghiệp.

Thành Phiên An (tức thành Gia Định) do ông cho xây đắp thêm, đến năm 1830 thì xong. Thành được xây bằng đá ong, thành cao, rộng nên khi Lê Văn Khôi, con nuôi của ông, khởi loạn chiếm thành, quân triều đình vây đánh 3 năm mới hạ được.

Tả quân lâm trọng bệnh và mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn (nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi.

Miếu mộ của ông được xây cất tại Bình Hòa Xã (Gia Định), nơi người dân Đồng Nai kính cẩn gọi là "Lăng Ông" hay đền thờ Đức Thượng Công, còn các tộc người Hoa tôn xưng đền là "Phò Mã Da Da Miếu. " 

II. Tài trị an & cầm binh của Tả Quân

Ông là người có khả năng về quân sự lẫn chính trị, ngoại giao; là một vị quan cai trị nghiêm khắc, thanh liêm. Dù quyền hành lớn, ông không hề hiếp đáp kẻ dưới, hoặc tìm mọi cách để tư túi riêng. Nhiều lúc LVD còn bỏ tiền của mình để làm việc hữu ích chung. Quân lính của ông rất có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bóc ...

Một khi được triều đình cử đi dẹp loạn ở nơi nào, LVD  cho điều tra kỹ để biết rõ nguyên nhân tại sao dân nổi loạn. Nếu biết chắc do đám quan lại sở tại tham nhũng, bức hiếp làm cho dân chúng quá khổ sở, thì ngài thẳng tay trừng trị bọn tham quan trước, rồi mới kêu gọi những kẻ làm loạn trở về đầu thú. Nhờ chính sách sáng suốt, khoan dung đó nên LVD  đã vỗ yên ở nhiều nơi nhanh chóng, mà không tốn kém nhiều tiền bạc và nhân mạng.

Dẫn chứng như  việc chiêu dụ Mọi Vách Đá vào những năm 1807 và 1808. Trong chiến dịch này ông đã cho xử trảm chưởng cơ Lê Quốc Huy, một tên đại tham nhũng. Năm 1819 Ngài được cử đi kinh lược hai trấn Thanh, Nghệ. Ở đây LVD cũng thẳng tay trừng trị nhiều quan lại tham ô. Đặc biệt, ông cho lập ra ba đội lính "Hồi Lương" (An Thuận, Thanh Thuận, và Bắc Thuận) gồm những thành phần nổi loạn chịu quy phục ...

Và ta cũng không thể nào quên một việc làm nổi tiếng nhất của ông. Đó chính là việc xử tử Huỳnh Công Lý (HCL), phó tổng trấn Gia Định, người thuộc cấp và cùng nhiệm sở với mình.

Nên biết HCL là cha của một bà thứ phi rất được vua Minh Mạng sủng ái. Ỷ thế cha vợ vua, viên quan lớn này vơ vét tài sản của dân nghèo, hà hiếp kẻ yếu, hối lộ thật trắng trợn... . Tiếng kêu ca thấu đến tai LVD, ông liền ngầm sai người điều tra tận gốc. Và sau khi thu thập đủ bằng chứng; một mặt, ông dâng sớ lên triều đình hài rõ tội trạng, mặt khác, LVD dùng quyền "tiền trảm hậu tấu" được Gia Long ban cho từ trước để  ra lệnh chém đầu ngay, vì ông biết rõ nếu chấp hành lệnh giải tội phạm về kinh thì sớm muộn gì nhà vua cũng chỉ "giơ cao đánh khẽ" hoặc chỉ "xử lý nội bộ"!

Ngoài đức tính thanh liêm ra, ông còn có cái dũng của bậc trượng phu

Nghĩa là ông không hề e ngại hay né tránh bất kỳ vụ việc gì, miễn là nó làm lợi cho dân cho nước. Trường hợp vừa kể trên là một thí dụ.

Và đã hai lần nhà vua cử người vào Nam giữ chức vụ quan trọng, đều bị ông từ chối tiếp nhận. Vì LVD biết những người này chỉ là những kẻ tham lam, chẳng thi thố được gì ngoài cái tài bòn rút. Một trong những người đó là Bạch Xuân Nguyên, mà sau này sẽ là đầu mối cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, con nuôi ông.

Riêng chánh sách "cấm đạo" của nhà Nguyễn, Tả quân làm cho lấy có. Bởi ông sớm nhận thức rằng việc cấm đạo, bắt bớ giết chốc các nhà truyền giáo, các giáo dân, bế môn tỏa cảng không cho người Tây phương vào mua bán, là một chính sách hết sức sai lầm.

Vậy cho nên, Minh Mạng không thể nào ưa Tả quân cho được. Nhưng vì uy thế, vì quyền hạn cùng binh mã của ông còn lớn quá, nhiều quá nên nhà vua chưa thể ra tay.

Mãi đến khi ông mất, Minh Mạng mới lệnh cho triều thần tra xét lại những chuyện làm cũ của ông, hài ra 7 tội đáng trảm, 2 tội đáng giảo ... để rồi vua cho tịch thu tài sản, ruộng đất, bắt giam tất cả người nhà của ông.

Đâu hết, kể từ đó mộ Tả quân bị nhà vua lệnh cho người xiềng xích và còn dựng lên trên một tấm bia ghi : "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ (đây là nơi tên yêm hoạn LVD chịu phép nước). Mấy chục năm sau, dưới đời Tự Đức, mới xóa tội, phục hồi lại danh dự cho ông. 

III. Trích vài nhận xét để ghi nhận công lao to lớn của Tả Quân

Chỉ nói riêng ở vùng đất phía Nam thôi, công lao của LVD thật vô cùng to tát.

Đó là công khai hoang, lập ấp; làm cho một vùng rừng rậm, đầm lầy ... trở nên trù phú với một nền an ninh vững chắc, bởi chiến lược bảo vệ và phòng thủ phía Nam và phía Tây rất hữu hiệu của ông.

Việc đáng kể nữa mà người hôm nay ít ai nhắc tới: Tả quân cũng là người có công lớn trong việc đào kinh Vĩnh Tế tại Châu Đốc, An Giang. Bởi nếu không có ông giỏi huy động một lúc 55000 ngàn dân phu Việt lẫn Khơ-me đến trợ giúp Thoại Ngọc Hầu từ năm 1822-1824, thì dù Minh Mạng có nóng ruột đến đâu đi nữa bởi công việc bị trì trệ, thì kênh cũng không sao hoàn thành sớm như bụng vua ước mong.

Nguồn sugia.vn