258 lượt xem

Nhà yêu nước Nguyễn Thái Học - Lãnh tụ khởi nghĩa Yên Bái

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và các hoạt động bạo động khác của Việt Nam Quốc dân đảng đầu năm 1930, đã làm rung động toàn bộ hệ thống chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương và đã gây ra những chấn động lớn tại nước Pháp đương thời. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái được đề cao, được coi như ngọn cờ tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh của một dân tộc bị áp bức chống đế quốc xâm lược. Vào đêm mồng 9 rạng ngày 10/2/1930, Nguyễn Thái Học cùng các cộng sự của ông với tinh thần yêu nước cháy bỏng và lòng căm thù giặc sâu sắc đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Yên Bái. Mặc dù không thành công, song Khởi nghĩa Yên Bái đã ghi vào trang lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam một dấu ấn khó phai mờ.

Hoàn cảnh xuất thân và quá trình trưởng thành của Nguyễn Thái Học

Nguyễn Thái Học sinh ngày 01/12/1902 tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) trong một gia đình trung nông sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, buôn vải. Ông là con cả của cụ Nguyễn Văn Hách và Nguyễn Thị Quỳnh. Từ 4 tuổi ông đã được cha mẹ cho đi học chữ Hán, năm 11 tuổi ông bắt đầu theo học chương trình tiểu học Pháp - Việt tại thị xã Vĩnh Yên. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Tiểu học, năm 1921, Nguyễn Thái Học thi đỗ vào Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Trong thời gian gần 3 năm học ở trường này, Nguyễn Thái Học đã nhiều lần công khai phản đối thái độ và hành vi phân biệt, miệt thị người bản xứ của một số giám thị và giáo viên người Pháp.

Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm (1924), Nguyễn Thái Học nộp đơn xin học Trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương. Trong thời gian ông học tập tại đây, phong trào yêu nước Việt Nam có nhiều chuyển biến rất quan trọng.

Có thể nói, truyền thống quê hương, tư tưởng Nho giáo cùng với những chính sách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp là những yếu tố cơ bản tạo nên một Nguyễn Thái Học yêu nước, căm thù giặc, thôi thúc ông tìm đường cứu nước. Nguyễn Thái Học bước vào tuổi trưởng thành cũng là thời kỳ phong trào kháng Pháp ở Việt Nam dần lắng xuống. Các phong trào vũ trang hay bạo động chống Pháp đều bị thực dân Pháp đàn áp. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam vừa mới hình thành còn rất non yếu về cả thế và lực. Tư tưởng “Pháp - Việt đề huề” mong dựa vào Pháp để cầu tiến bộ, cải cách đang được tán dương, nhất là khi Varenne, đảng viên Đảng Xã hội Pháp được cử sang làm Toàn quyền Đông Dương với hàng loạt các chính sách phỉnh phờ, lừa bịp, mua chuộc. Nguyễn Thái Học cũng không khỏi ngộ nhận có thể đề nghị Pháp tiến hành một số cải cách, thúc đẩy nền kinh tế bản xứ phát triển để người dân thuộc địa dễ sống hơn nhưng những nguyện vọng của ông gửi tới chính quyền Pháp đều không được chấp nhận.

Năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo nổ ra và bước đầu giành thắng lợi. Trước sự thất bại của con đường đấu tranh cải lương, Nguyễn Thái Học nhận ra rằng muốn cứu nước chỉ có con đường vũ trang khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp. Khi đã xác định được con đường cứu nước, Nguyễn Thái Học đã nhanh chóng cùng một số thanh niên trí thức yêu nước cùng chí hướng thành lập tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng vào ngày 25/12/1927.

Nói đến tư tưởng cách mạng của Nguyễn Thái Học, phải nói đến tư tưởng “Không thành công cũng thành nhân” của ông. Tư tưởng này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái Học và đại cục của Việt Nam Quốc dân đảng và cũng là ngòi nổ của cuộc khởi nghĩa Yên Bái.

Nguyễn Thái Học với tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng

Năm 1926, tại Hà Nội xuất hiện một nhà xuất bản mang tên Nam Đồng thư xã do hai anh em Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm và Hoàng Phạm Trân chủ trương, do Phạm Tuấn Tài làm chủ nhiệm. Nam Đồng thư xã vừa giống như một nhà xuất bản, một hiệu sách đồng thời như một nhóm biên soạn, tập trung vào việc biên soạn, dịch thuật, phát hành sách báo phổ biến các tư tưởng cách mạng, đặc biệt là tư tưởng Tôn Trung Sơn, ca ngợi các tấm gương nghĩa liệt, những anh hùng cứu quốc là người Việt Nam và nước ngoài và trở thành một trong những nơi quy tụ thanh niên, trí thức yêu nước ở Bắc Kỳ.

Lúc đó, Nguyễn Thái Học là sinh viên năm thứ 2 của trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương, là độc giả thường xuyên của nhà xuất bản, rồi liên lạc với Nam Đồng thư xã và cuối cùng đến cuối năm 1927, cùng với Hồ Văn Mịch dọn đến ở chung với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm và Hoàng Phạm Trân ngay trong nhà xuất bản để cùng chia sẻ tư tưởng và hành động. Năm 1927, sau khi Nguyễn Thái Học gửi đến Thống sứ Bắc kỳ xin phép ra tờ bán nguyệt san lấy tên Nam Thành với mục đích nâng cao dân trí, bỏ hủ tục, khuyến khích phát triển nền kinh tế thuộc địa nhưng không được chấp thuận, Nguyễn Thái Học và nhóm Nam Đồng thư xã khẩn trương chuẩn bị để lập ra một tổ chức yêu nước bí mật. Đi từ tuyên truyền cổ động, Nam Đông thư xã đã trở thành hạt nhân của việc thành lập chính đảng của giai cấp tư sản Việt Nam. Chỉ trong thời gian ngắn, nhóm Nam Đồng thư xã đã tổ chức được 18 chi bộ rải rác trong các tỉnh Bắc Kỳ với số lượng gần 200 đảng viên bí mật.

Ngày 25/12/1927, Việt Nam Quốc dân đảng ra đời tại cuộc họp ở làng Thể Giao, nay là nhóm các đường phố Thể Giao, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm - quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Thái Học chủ trì. Sau khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Nguyên Thái Học, Việt Nam Quốc dân đảng đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển cơ sở trong các tầng lớp dân chúng trên cả nước, nhất là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng còn có thêm các nhóm nhân sĩ và trí thức yêu nước ở Bắc Ninh do Nguyễn Thế Nghiệp tổ chức, nhóm khác ở Thanh Hoá do Hoàng Văn Đào đứng đầu, một nhóm ở Thái Bình do Hà Đình Điển tổ  chức và một nhóm ở Sài Gòn do Trần Huy Liệu đứng đầu. Cơ sở tổ chức của Việt Nam Quốc dân đảng phát triển tương đối nhanh trong năm 1928 và đầu năm 1929, thu hút hàng nghìn thanh niên trí thức, công chức và binh lính Việt Nam yêu nước trong quân đội Pháp. Đến năm 1928, Việt Nam Dân quốc hội do Nguyễn Khắc Nhu thành lập cũng tự nguyện sáp nhập, cùng chịu sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học.

Khi mới thành lập, Đảng chưa có chính cương rõ ràng mà chỉ nêu chung chung là “Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm cách mạng thế giới”. Năm 1928, Đảng nêu lên tôn chỉ “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Mục đích của Đảng là để đoàn kết lực lượng để đẩy mạnh cách mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ trực tiếp, giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. Trong điều lệ sửa đổi (công bố tháng 02/1929), Đảng nêu ba nguyên tắc tư tưởng là “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương tiến hành cách mạng qua bốn thời kỳ: thời kỳ bí mật (tập hợp lực lượng); thời kỳ dự bị (chuẩn bị các điều kiện vật chất như lương thực, vũ khí đạn dược cho cuộc khởi nghĩa vũ trang); thời kỳ công khai (đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ ngôi vua); thời kỳ kiến thiết (thành lập chính phủ cộng hòa, thực hiện các quyền tự do dân chủ). Nhưng đến khi khởi nghĩa vũ trang, những nguyên tắc và chính sách có tính cách mạng lại bị loại bỏ.

Về mặt tổ chức, Việt Nam Quốc dân đảng có bốn cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Chi bộ. Mỗi chi bộ không quá 19 người. Từ Chi bộ đến Tỉnh bộ, Kỳ bộ tới Tổng bộ. Mỗi cấp có 4 ban: Tài chính, Tuyên truyền, Trinh sát, Tổ chức. Tổng bộ có thêm 4 ban: Binh vụ, Ngoại giao, Giám sát và Ám sát. Trên thực tế, Kỳ bộ Việt Nam Quốc dân đảng Bắc Kỳ làm nhiệm vụ của Tổng Bộ. Thành phân của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng bao gồm: trí thức, học sinh, giáo viên, công chức, những người làm nghề tự do, một số thân hào ở nông thôn, một số binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tổ chức cơ sở trong quần chúng rất ít, địa bàn hoạt động chủ yếu ở một số tỉnh Bắc Kỳ.

Có thể thấy, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đã không lấy ba phương châm: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc của Tôn Trung Sơn mang lại mà lại lấy “tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng Pháp làm đường lối, phương châm cách mạng. Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng hạt nhân xuyên suốt trong ba bản Chương trình hành động và Điều lệ của Việt Nam Quốc dân đảng từ tháng 12 năm 1927 đến khi tan rã là chủ nghĩa dân tộc cách mạng và tư tưởng bạo động khởi nghĩa. Việt Nam Quốc dân đảng đã cho thấy cách mạng Việt Nam có thể tập hợp được những người tri thức, tư sản, tiểu tư sản, hào lý, binh lính, công chức nếu họ yêu nước. Đồng thời, Việt Nam Quốc dân đảng là bước đầu thử nghiệm tổ chức “phụ nữ Đoàn” với mục đích, điều lệ, lời thề vào Đoàn, tổ chức bốn cấp với các ban chuyên môn ở Trung ương và Ban Tuyên truyền, Ban Thanh tra, Ban Giao thông, Ban Tài chính... Đây là những tổ chức mà trước Việt Nam Quốc dân đảng chưa có Hội, Đảng nào có được một sự quan tâm, tổ chức như vậy.

Ban Biên tập