HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM tại THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIÁO TRÌNH MÔN HỌC “SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM”
Giảng viên : Nguyễn Hiền Đức (năm 2010).
Cử nhân Giáo khoa Sử học (năm 1973) – Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Chương I :
PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM
Hầu hết các sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam trước đây đều cho rằng Phật giáo từ Ấn Độ truyền qua Trung quốc, rồi từ Trung Quốc mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I – II, đầu kỷ nguyên Dương lịch. Nhưng nếu nghiên cứu kỹ hơn về các sách cổ, các tài liệu xưa, các di tích lịch sử - văn hóa (đình chùa, đền miếu…) ở Việt Nam, và Đại Tạng Kinh của Phật giáo, chúng ta biết được là Phật giáo từ Ấn Độ đã du nhập thẳng vào Việt Nam ngay từ cuối thời Hùng Vương, vào khoảng thế kỷ III trước Dương lịch; sau khi hình thành và phát triển, mới có sự giao lưu giữa Phật giáo Việt Nam và Trung quốc vào khoảng thế kỷ II-III sau Dương lịch, với các Trung tâm Phật giáo nổi tiếng như Liên Lâu (hay Luy Lâu) ở Giao Châu (Việt Nam), cùng Lạc Dương và Bành Thành ở Trung quốc. Đồng thời chúng ta thấy được là Phật giáo Việt Nam có nhiều điểm khác biệt hẵn với Phật giáo Trung quốc, và có thời vượt hơn Phật giáo Trung quốc; chứ không phải là Phật giáo Việt Nam từ Trung quốc truyền sang, hay như thuộc truyền thừa của Phật giáo Trung quốc, như một số sách Lịch sử Phật giáo cũ đã viết.
I. PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM TỪ THỜI HÙNG VƯƠNG (Thế kỷ III trước Dương lịch).
Sách “Lĩnh Nam Trích Quái” của Trần Thế Pháp kể một số sự tích vào thời Hùng Vương, trong đó có truyện “Nhất Dạ Trạch” (Đầm Một Đêm) như sau:
Vào thời vua Hùng thứ Mười tám (vào khỏang thế kỷ III Trước Dương lịch), Chử Vi Vân ở làng Chử Xá, có con là Chử Đồng Tử. Hai cha con nhà nghèo, hiền lành, sống bằng nghề đánh cá. Chẳng may, nhà bị cháy, gia đình chỉ còn có một chiếc khố vải, cha con phải thay nhau mà mặc; ai đi ra đường thì đóng khố. Lúc đó, Chử Vi Vân lại bị bịnh nặng, sắp chết, bảo con rằng: “Khi cha chết, con đào lỗ chôn, để chiếc khố lại mà mặc”. Sau khi cha mất, Chử Đồng Tử không nỡ làm như thế, nên cứ để nguyên cả chiếc khố mà chôn. Vì thế, hằng ngày, Chử Đồng Tử đi bắt cá với thân hình trần truồng, thấy người hay thuyền đi qua, phải lội xuống nước, che nửa thân người.
Lúc bấy giờ, vua Hùng không có con trai, chỉ có hai người con gái rất xinh đẹp là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Công chúa Ngọc Hoa được gả cho Sơn Tinh, còn Tiên Dung không chịu lấy chồng, chỉ thích đi ngao du sơn thủy. Vua cũng chiều ý theo. Mỗi năm, vào tháng Hai, tháng Ba, công chúa Tiên Dung thường đi thuyền ra biển du ngọan, vui chơi ngoài biển.
Một hôm, Tiên Dung đi thuyền dọc bờ biển thuộc làng Chử Xá, ghe thuyền cờ xí, đàn sáo, chuông trống vang lừng. Bỗng công chúa ra lệnh dừng thuyền ở bờ biển, để công chúa lên bãi biển ngắm cảnh. Trong lúc đó, Chử Đồng Tử đang bắt cá ở bờ, thấy đòan thuyền ghé vào bờ, sợ hãi, vội trốn vào đám lau sậy , moi cát phủ lên thân mình. Sau đó, công chúa lại cho cung nữ giăng màn trướng ở bãi biển để tắm, ngay nơi Chử Đồng Tử ẩn trốn. Tiên Dung cùng cung nữ tắm biển nô đùa vô tư, nước cuốn cát trôi ; bất ngờ lộ nguyên thân mình Chử Đồng Tử ! Sau giây phút bối rối, ngỡ ngàng, công chúa định tâm bình tỉnh lại, nghĩ rằng: Việc trớ trêu nầy xảy ra, âu cũng làø nhân duyên Tiền định, Tiên Dung nói rằng: Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp chàng trong huyệt cát, có lẽ trời khiến như thế. Thôi, chàng hãy tắm rữa đi. Công chúa sai cung nữ lấy quần áo của quan theo hầu cho Đồng Tử mặc, mời lên thuyền dự tiệc. Chử Đồng Tử trình bày rõ hoàn cảnh đơn côi nghèo khó của mình. Tiên Dung thương xót, nhận làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: Việc nầy là do trời tác hợp, cớ gì mà từ chối! Đồng Tử cảm động sự chân thật của Tiên Dung, nên nhận lời.
Những người theo hầu công chúa báo về triều, tâu với vua sự việc. Vua tức giận, không cho Tiên Dung trở về cung điện nữa.
Tiên Dung cùng Chử Đồng Tử lập phố xá để buôn bán, dần dần nơi nầy trở thành một ngôi chợ lớn là chợ Hà Lõa, có cả thương nhân người nước ngoài đến buôn bán (chuyện An Tiêm cũng cho biết thời đó đã có buôn bán bằng đường biển). Một hôm, có một thương nhân đến rủ Chử Đồng Tử hùn vốn ra nước ngoài buôn bán. Chử Đồng Tử cùng lên thuyền đi buôn. Khi thuyền ghé lên bờ để lấy thêm nước và lương thực ở chân núi Quỳnh Viên, Chử Đồng Tử lên núi dạo chơi, ngắm cảnh. Gặp một am tranh trên núi, Đồng Tử ghé viếng, gặp sư Phật Quang đàm đạo. Sư Phật Quang thuyết giảng Phật pháp, Đồng Tử nghe khế hợp và quyết định ở lại núi nầy để tu học. Nên Đồng Tử giao vàng cho người bạn đi buôn, dặn khi nào trở về thì ghé chở Đồng Tử về nước.
Năm sau, thuyền buôn đến rước, khi xuống núi, sư Phật Quang tặng cho Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, bảo rằng : Các việc “linh thông” có cả trong hai vật nầy.
Chử Đồng Tử về nhà, giảng giáo lý đạo Phật và những điều đã học với sư Phật Quang trên núi Quỳnh Viên cho Tiên Dung. Tiên Dung cũng ngộ được lý đạo, nên cả hai vợ chồng quyết định bỏ nghề buôn bán để lo tu hành giải thoát. Sau thời gian chí tâm nghiêm mật ẩn tu trên núi, Chữ Đồng Tử và Tiên Dung đắc thành đạo pháp, xuống núi độ đời.
Một hôm, Đồng Tử và Tiên Dung đến giữa một cánh đồng vắng khi trời tối, hai người cắm cây gậy và úp nón lá trên đầu cây gậy, đọc chú, bỗng thấy hiện ra một tòa thành quách, có cả lầu đài, nhà cửa, với ngọc ngà châu báu, tướng sĩ trang nghiêm, cung nữ xiêm y rực rỡ…. Sáng ngày dân chúng địa phương trông thấy hết sức kinh ngạc, họ mang hoa quả, vật thực đến dâng và xin theo hầu, số người theo ngày càng đông.
Vua Hùng nghe tin vợ chồng Tiên Dung lập thành quách và quân lính, tưởng rằng Chữ Đồng Tử muốn nổi lên chống lại triều đình, nên cử môt đạo quân hùng hậu đến dẹp lọan. Đạo quân đến bãi Tự Nhiên bên bờ sông lớn, dừng lại nghỉ đêm, chuẩn bị sáng hôm sau vượt sông đánh dẹp. Dân chúng trong thành định dàn trận chống giữ. Nhưng Tiên Dung bảo rằng: Việc nầy là do Trời định, ta đâu dám chống lại cha. Dân chúng mới theo sợ hãi nên bỏ chạy, chỉ còn tướng sĩ và cung nữ cũ ở nguyên trong thành. Đến giữa đêm, mưa bão, giông gió, sấm chớp nổi lên, thuyền bè dinh trại của binh lính vua Hùng nghiêng ngã…. Sáng hôm sau mưa bảo yên, dân chúng và quan binh triều đình không thấy thành quách cùng quân binh của Chữ Đồng Tử ở đâu cả, đất ở ngay nơi thành cũ bị sụp xuống sâu thành một đầm lầy lớn. Dân chúng cho rằng Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời, nên lập Miếu thờ; gọi đầm đó là “Đầm Một Đêm” (Nhất Dạ Trạch).
Trước đây, nhiều người cho rằng đó là chuyện thần thọai của người tu Tiên. Nhưng thật ra, nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta biết được đây là chuyện có thật của người tu theo Mật tông trong Phật giáo.
Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời không phải là sự tưởng tượng, mà là một việc mà các vị tu hành Mật Tông có thể làm được ! Trong sách “Lục độ Tập kinh” do Khương Tăng Hội dịch Phạn – Hán, viết : “Hễ muốn lên trời, phải qui y Tam bảo, hiểu bốn vô thường, dứt hết xan tham, nuôi chí thanh tịnh, liều mình cứu người, ban ơn khắp chúng sinh, đó là một. Thương xót chúng sinh, quên mình cứu người, lòng hằng biết đủ, không phải của mình không lấy, giữ trinh không dâm, giữ tín không lừa dối, rượu là độc dữ, khô nát đạo hiếu, tuân giữ mười lành, lấy chính dẫn bà con, đó là hai. Nhẫn nhục chúng sanh, (…), đem ba ngôi báu mà dẫn dụ (…). Giữ đức lớn nầy, trước sau không lỗi, cầu làm vua pháp ba cõi, thì có thể lên trời khó gì.”
Việc sư Phật Quang trao cho Đồng Tử cây gậy, nón lá và bảo “Các việc linh thông đều ở trong hai vật nầy”, nhiều người cho rằng Chử Đồng Tử tu Tiên, chứ không phải tu theo Phật giáo. Thật ra, cây gậy và nón lá là hai pháp khí của các tăng sĩ Phật giáo tu theo Mật tông từ thời xưa cho đến ngày gần đây. Cây gậy là cây Tích trượng của các Thiền sư, hay là pháp khí của người tu theo Mật tông. Thiền sư Từ Đạo Hạnh dùng gậy đánh chết sư Đại Điên để trả thù cho cha; Bà Man Nương ở chùa Dâu (chùa Pháp Vân) dùng gậy cắm xuống đất rồi đọc chú làm cho nước phun ra để cứu dân chúng đang bị hạn hán…. Chiếc nón lá để che nắng, đồng thời là phương tiện để qua sông suối của các tăng sĩ thời xưa khi đi hành đạo, vì thời đó chưa có cầu và ít có bến đò như thời nay. Cho đến thế kỷ 20, các vị sư ở Nam Bộ, nhất là các ông Đạo của Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn thường đứng trên nón lá để qua sông rạch.
Ngoài ra, còn một giả thuyết khác : Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thời vua A-dục cai trị ở Ấn Độ.
II. PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM TỪ THỜI VUA A-DỤC CAI TRỊ Ở ẤN ĐỘ ( THẾ KỶ III T.DL).
Vua A-dục (Asoka = Vô ưu), có hiệu là Thiện Ái Hỷ Kiến vương, hay Thiện Ái Thiện Kiến vương. Vua A-dục là vị vua thứ ba của triều đại Khổng Tước (Maurya) của nước Ma-kiệt-đà (Magadha) ở Trung Ấn Độ, và là người có công nhất trong việc hộ trì và hoằng truyền Phật giáo.
Vua A-dục sinh vào khoảng giữa thế kỷ III trước Dương lịch, lên ngôi vào khoảng năm 272 đến năm 264 TDl, mất khoảng năm 232-231 TDl, sau khi Đức Phật Thích Ca diệt độ khoảng 218 năm. Ông nội của ông là Đại vương Chandragupta (Chiên-đà-la-cấp-đa) của vương quốc Ma-kiệt-đà, cha ông là vua Bindusara (Tân-đầu-sa-la), mẹ ông là A-dục-vi-đạt-na (Asokavadana). Nước Ma-kiệt-đà lúc đó rất rộng lớn, trãi dài từ dãy núi Hy-ma-la-ya (Hy-mã-lạp sơn) ở miền bắc bán đảo Ấn Độ, xuống đến tận vùng Mysore ở miền nam Ấn Độ ngày nay.
Lúc còn trẻ, hoàng tử A-dục tánh tình rất hung bạo, không được vua cha thương mến. Khi nước Đức-xoa-thi-la (Takasila) làm phản, vua sai hoàng tử A-dục đem quân dẹp loạn, nhưng lại không cấp đầy đủ cũ khí với ý định cho hoàng tử chết trong trận chiến. Nhưng nhờ tài đánh trận giỏi, nên hoàng tử dẹp được quân phản loạn. Nhờ đó, uy danh lừng lẫy.
Sau đó, hoàng tử A-dục được vua cha cử làm Thái thú, cai trị miền bắc Ấn Độ. Vài năm sau, vua Tân-đầu-sa-la bị bịnh nặng, Hoàng tử A-dục trở về kinh đô Pataliputra (Hoa-thị thành). Sau khi vua cha chết, các hoàng tử tranh giành ngôi vua suốt 4 năm trường. Có thuyết cho rằng, hoàng tử A-dục giết chết 99 người anh em mới lên ngôi vua. Sau khi lên ngôi, vua A-dục vẫn còn hung bạo, giết nhiều đại thần, phụ nữ, tàn ác với nhân dân, lập nhiều nhà tù …; nên bị gọi là Chiên-đà-a-dục vương (Chandasoka). Sau khi làm vua bảy năm (có sách ghi 2 hay 3 năm), vua A-dục qui y theo Phật giáo. Tuy là ưu-bà-tắc nhưng vua chưa hết lòng tin Phật, chưa thân cận chư tăng. Nhân duyên và năm tháng vua qui y theo Phật giáo, các kinh sách viết khác nhau.
Lên ngôi được 9 năm (k.259 t.Dl), vua A-dục muốn thống nhứt đất nước, nên đem quân đánh chiếm nước Yết-lăng-già (Kalinga) ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Cuộc chiến xảy ra hết sức khốc liệt, hằng chục vạn người bị giết, hằng chục vạn người bị tù đày khốn khổ, nhà cửa bị tàn phá… Sau cuộc chiến đó, vua A-dục bỗng thấy hối hận, thấu hiểu rõ được lý đạo Phật là xác đáng, nên vua quyết chí tu theo đạo Phật, có đạo hiệu là Thiên Ái Hỷ Kiến. Để tỏ lòng sám hối tội lỗi, vua đã ban bố Sắc luật khắc trên bia đá như sau : “ Vua Thiên Aùi Hỷ Kiến, lên ngôi chín năm, đem quân chinh phạt nước Yết-lăng-già, bắt sống 15 vạn người, giết hại mười vạn người và số người chết vì bịnh tật, đói khát nhiều gấp bội.Kể từ ngày thôn tính nước đó đến nay, Thiên Ái rất nhiệt tâm hộ trì Chánh pháp để truyền bá khắp nơi. Nay nghĩ lại về sự sát phạt, bắt bớ, và những sự giết hại ở nước Yết-lăng-già, Thiên Ái rất lấy làm đau lòng và thành tâm sám hối …”.
Vua cho trả lại đất đai của nước Yết-lăng-già, thả hết tù binh, lại còn gởi cho họ một bức thư xin lỗi. Thật là một việc làm “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử thế giới.
Sau cuộc chiến ác liệt, tàn khốc đó, vua A-dục ngộ được lý đạo Phật, vua quyết chí tâm tu hành, thực hiện theo hạnh Bồ tát, hết lòng hộ trì Phật giáo. Vua còn tuyên bố “Thắng lợi bằng Chánh pháp là thắng lợi cao hơn tất cả!”. Vua bỏ săn bắn, bỏ cuộc sống xa hoa, ra lệnh cấm sát sanh, bảo hộ lòai vật. Vua ra lệnh cho các quan ở các địa phương làm các việc thiện, giúp ích cho dân chúng.
Ở ngôi được 12 năm, vua A-dục chí tâm tu hành miên mật nên đạt được giác ngộ. Vua hết lòng hộ trì và truyền bá Đạo Phậ, vì vậy, vào nửa cuộc đời còn lại, vua được tôn gọi là “Vua A-dục Chánh pháp”.Vua A-dục qui y, hộ trì và hết lòng truyền bá đạo Phật là nhờ ở sự hướng dẫn của Tỳ kheo Hải (Samudra), Tỳ kheo Ni-cù-đà hay Ni-câu-luật (Nigrodha), và A-la-hán Da-xá (Yasa).
Công đức về sự hộ trì và xiển dương Phật giáo của vua A-dục gồm những việc lớn như sau :
1. Vua ban bố các Sắc lệnh chăm lo Đạo đức và Từ thiện cho dân chúng.
Từ năm lên ngôi thứ 12 đến năm 39, vua ban bố nhiều sắc lệnh khắc trên đá, ra lệnh : cấm sát sanh, xây dựng bệnh viện, phân phối thuốc trị bệnh cho dân chúng, động viên trồng cây thuốc, nuôi người già yếu bệnh tật, đào giếng, trồng cây hai bên đường …”. Vua ân xá cho tội nhân 26 lần.
Vua ra lệnh cho các quan địa phương phải lấy lòng nhân từ cai trị dân và lo cho dân, thưởng phạt không sai, khuyến khích và giúp đỡ dân chúng làm việc thiện, xa việc ác, có tâm từ bi, khoan dung, thành thực và trong sạch.
Vua chủ trương tự do tín ngưỡng, không kỳ thị chủng tộc, không phân chia giai cấp.
Vua ra lệnh phải giữ sự hòa thuận trong đền chùa, trong Tăng đoàn; trị tội những những người gây chia rẽ hay làm suy yếu Tăng đoàn.
Vua cũng ra lệnh phải bố thí cho các Tu sĩ Bà-la-môn cũng giống như các Tăng sĩ Phật giáo; và không được mạt sát tín ngưỡng của người khác. Vua còn ra lệnh, 5 năm một lần, quan và dân mở Đại hội Du-già cúng dường cho các Sa môn và các Bà-la-môn… .
Các Sắc lệnh được khắc trên các cột đá, nên được gọi là “A-dục vương Pháp Sắc” hay “A-dục vương Khắc Văn”. Các Pháp Sắc hay các Khắc Văn được công bố cho dân chúng trên toàn lãnh thổ của Đế quốc Ma-kiệt-đà. Các Trụ đá nầy được gọi là “Trụ đá của vua A-dục” (A-dục vương Thạch Trụ). Trụ đá là cột bằng đá tròn, cao từ 7m đến 13m, trên đỉnh trụ đá có chạm hình con sư tử, hoặc con ngựa, hoặc 3 con sư tử. Phía dưới con sư tử hay con ngựa còn chạm hình mặt trời, Bò thần, hoa văn hình Hoa sen … Những Trụ đá của vua A-dục rất quan trọng cho Lịch sử Ấn Độ và Lịch sử Phật giáo. Nhờ những Trụ đá nầy mà ngày nay, con người chúng ta mới biết chắc chắn rằng Đức Phật Thíc Ca là có thật trong lịch sử nhân loại, chứ không phải là huyền thoại ! Phật giáo và Tam Tạng Kinh điển của Phật giáo cũng là những sự kiện có thật trong Lịch sử nhân loại!
2. Vua A-dục chiêm bái Phật tích và Thánh tích.
Vua nghe theo chỉ giáo của Cao tăng Ưu-ba-cấp-đa (Upagutta) ở núi Ưu-lâu-mạn-đà (Urumanda), nên đi chiêm bái các Phật tích và Thánh tích, đồng thời vua còn cho dựng các trụ đá khắc bia kỹ niệm, nhờ các Trụ đá nầy mà ngày nay chúng ta xác minh được những nơi quan trọng trong sự tích của Đức Phật Thích Ca, và Đức Phật Thích Ca là một con người có thật trong lịch sử nhân loại chứ không phải là huyền thoại ! Vua đến chiêm bái các Phật tích quan trọng sau :
a. Vườn Lâm-tì-ni (Lumbini), nơi đức Phật Thích Ca giáng sinh. Trụ đá này đã bị mất con ngựa trên đỉnh, hiện chỉ còn trụ đá tròn, được Nhà khảo cổ Furère phát hiện năm 1806 và sau đó đã được Chánh phủ Népal công nhận.
b. Bồ-đề Đạo tràng (Bodhi Mandala hay Buddha Gaya) là nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo, nay thuộc Tiểu bang Bihar của Ấn Độ. Năm 409, Cao tăng Pháp Hiển du học Ấn Độ đã đến chiêm bái Bồ đề Đạo tràng. Năm 637, Pháp sư Huyền Trang cũng đến chiêm bái Thánh tích tả lại như sau : “ Về phía đông cây bồ đề [nơi Đưc Phật ngồi thiền định suốt 49 ngày đêm và đắc đạo], có một tháp cao chừng 52 thước, nền tháp độ 20 thước vuông, tường bằng gạch xanh, trét vôi chu nam, các khám của mỗi tầng đều thếp vàng. Bốn mặt tường đều đầy những tượng khắc rất mỹ thuật, chỗ nầy là hình ảnh những chuỗi ngọc dài, chỗ kia là những vị tiên. Đỉnh tháp là một trái Am-lak bằng đồng thếp vàng. Mặt phía đông có một tòa lầu ba tầng … . Ở chỗ tháp hiện tại, vua A-dục có xây dựng một ngôi chùa, về sau, một người Bà-la-môn xây lại một ngôi đền to rộng hơn nhiều …”.
c. Lộc Uyển (Vườn nai) là nơi Đức Phật Thích Ca chuyển pháp luân, độ 5 vị Tỳ kheo đầu tiên, nay là Sarnath, thuộc Tiểu bang Utta Pradesh của Ấn Độ. Vua A-dục cho xây tháp và dựng trụ đá; nhưng sau bị chiến tranh tàn phá. Hiện nay, Thánh tích nầy còn có : Tháp Dahmek (là chữ viết tắt của chữ Dhamma mukha, nghĩa là suy tưởng Chánh pháp), cây bồ đề, Tượng Đức Phật Chuyển pháp luân và Tượng Sư tử bằng đá trên đỉnh Trụ đá của vua A-dục …
d. Câu-thi-na (Kusinagara) là nơi Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn dưới hai hàng cây Sa-la, nay là Kasia ở quận Deoria, tiểu bang Utta Pradesh của Ấn Độ. Đến thế kỷ VII, Pháp sư Huyền Trang viếng Câu-thi-na kể lại như sau : “Kinh đô xứ nầy đều bị đổ nát. Về phía tây bắc thành phố độ 3, 4 dặm, vượt qua sông Ajitavi về phía tây không xa lắm, chúng ta đến khu rừng cây sa-la. Cây sa-la giống như cây huk, võ cây màu trắng xanh, lá lóng lánh và trơn dịu. Trong khu rừng nầy có 4 cây cao, có hơi khác hơn các cây khác, là chỗ Đức Phật nhập Niết bàn.
Tại chỗ nầy có một tinh xá bằng gạch, trong đó có tượng đức Như Lai nhập Niết bàn. Bên cạnh tinh xá là một ngọn tháp do vua A-dục dựng lên, dầu đã hư sụp, nhưng cũng còn cao khoảng 60 thước. Trước ngọn tháp nầy là một Trụ đá kỹ niệm Đức Phật nhập Niết bàn, trên trụ đá có khắc chữ nhưng không có ngày tháng [..…]. Phía bắc thành phố [Câu-thi-na], vượt qua sông và đi độ 200 bước, có một ngọn tháp. Đây là chỗ làm lễ Trà tỳ (Hỏa táng) nhục thân Đức Phật. Đất hiện tại đen vàng, than và đất xen lộn với nhau. Những Phật tử có lòng chí thành, đến tại chỗ nầy cầu nguyện, nhất định tìm được một vài xá lợi của Đức Phật.”
Thánh tích Câu-thi-na hiện nay còn Đại tháp Niết bàn và chùa thờ Tượng Phật nhập Niết bàn. Tượng Phật trong nằm nghiêng đầu quay về hướng bắc, mặt nhìn về hướng tây, hai chân chồng lên nhau, dài 7m. Tượng được tôn trí trên bệ đá dài và rộng.
Ngoài ra, vua A-dục còn đến chiêm bái những Thánh tích Phật giáo khác: Tinh xá Kỳ Viên, Tháp thờ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, tháp Đại Ca-diếp, tháp A-nan …
3. Xây dựng Chùa Tháp.
Vua A-dục thực hiện rất nhiều Phật sự, ngoài việc hộ trì Chánh pháp, cúng dường tăng chúng, vua còn xây dựng rất nhiều chùa và tháp, nhiều sách viết là 84.000 chùa và tháp.
4. Kết Tập Kinh điển Phật giáo lần thứ Ba tại Pataliputra.
Vào thời vua A-dục, Phật giáo phát triển, tăng ni ngày càng đông, có nhiều người ngoại đạo cũng vào làm tăng, xảy ra nhiều tranh luận về Phật pháp, khó phân biệt chánh pháp hay tà ngụy. Vì vậy, vua muốn xác định lại giáo pháp của Đức Phật Thích Ca, nên vào năm vua ở ngôi thứ 18 (khoảng năm 255 TDl), vua cử sứ giả đến thỉnh Ngài Mục-kiền-liên-tử Đế-tu (Moggaliputta Tissa) ẩn dật ở núi A-hô-hằng-già (Ahoganga) lo việc kết tập Kinh điển lần thứ ba. Ngài Đế-tu tuyển chọn một ngàn vị Trưởng Lão về Hoa-thị-thành (Pataliputra) để kết tập Tam tạng Kinh điển Phật giáo. Đây là lần Kết tập Kinh điển lần thứ Ba của Phật giáo, được hoàn thành trong 9 tháng.
5. Cử các Chánh Pháp Đại quan (Dharma Mahamata) đi truyền bá Đạo Phật ở nước ngoài.
Sau khi Kết tập Kinh điển, vua A-dục đã cử nhiều Chánh Pháp Đại quan đi truyền bá Phật pháp ở nhiều nước khắp bán đảo Ấn Độ, Tích Lan, các nước khắp vùng Đông Nam Á và Đông Á ngày nay :
- Mạt-xiển-đề (Majihatika) đến nước Kế-tân (Kashmira) và nước Kiền-đà-la (Gandhara), tức vùng Kashmir và miền bắc Ấn Độ ngày nay.
- Ma-ha-đề-bà (Mahadeva) đến nước Mahimskamandala (Ma-hê-sa-man-đà-la), tức vùng miền nam Ấn Độ ngày nay.
- Lặc-khí-đa (Rakkhita) đến nước Ba-na-ba-tư (Vanavasi), miền nam Ấn Độ ngày nay.
- Ha-lặc-khí-đa (Maharakhita) đến nước Du-na Lô-ca (Yonaja Loka), phía tây nước Afghanistan ngày nay.
- Đàm-vô-đức (Yonaka Dhammarakkhita) đến nước Aparantaka (A-ba-lan-đa-ra) ở vùng miền tây Ấn Độ ngày nay.
- Ma-ha-đàm-vô-đức (Mahadhammarakkhita) đến nước Mahanattha (Ma-ha-thích-đà) ở miền nam Ấn Độ ngày nay.
- Mạt-thi-ma (Majjhima) và Ca-diếp-ba (Kaspaya) đến xứ núi Tuyết, tức vùng nước Népal ngày nay.
- Ma-sân-đa (Mahinda), Uất-đế-da (Uttiya), Tham-ba-lâu (Sambala), Bạt-đà (Bhaddsala) đến nước Sư Tử (nước Tích Lan ngày nay).
- Tu-na-ca (Sonaka) và Uất-đa-la (Uttara) đến Xứ Vàng (Suvannabhumi). Xứ Vàng hay Kim Địa có thể là vùng Đông Nam Á ngày nay. Phái đoàn nầy còn có thể đến cả Trung quốc.
Sau đó, vua tiếp tục cử các Chánh pháp Đại quan và các Phái đoàn đi truyền bá Phật pháp ở nhiều nước ở Phương Tây, tức các nước ở vùng ven Địa Trung hải như Hy lạp, Macédonia, Iran, Syria, Ai Cập … .
Vua A-dục còn ban hành các Pháp Sắc và các Bản văn về Phật pháp khắc vào các Trụ đá ra lệnh : Cứ 5 năm, vua triệu tập Hội nghị các quan về Tư pháp và Thu thuế để bàn thảo về “Pháp”, dựng lập “Pháp” và cử thêm các Chánh pháp Đại quan Dhamma Hahamata.
Đặc biệt, con của vua A-dục là Ma-sần-đà (Mahinda) có công lớn trong việc truyền bá đạo Phật ở đảo Sư Tử (nước Tích Lan), và Phật giáo tiếp tục phát triển từ đó cho đến hiện nay.
Sau khi vua A-dục mất, vẫn còn nhiều Phái đoàn đi truyền bá Phật giáo ở các nước Trung Á (Khotan = Cô-tàn …), Trung quốc, Tây Tạng, Mông Cổ, Nhật Bản, có thể cả Việt Nam … .
Nền văn minh Ấn Độ thời Vương triều Khổng Tước (Maurya) chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ, Hy Lạp và Ba Tư. Và nền văn minh nầy ảnh hưởng đến Phật giáo các nước chịu ảnh hưởng của Đế quốc Ma-kiệt-đà thời vua A-dục.
Vua A-dục lập nhiều công đức trong việc truyền bá đạo Phật ở Ấn Độ và nhiều nước như thế, nhưng có lẽ vua phải chịu trả những nghiệp quả về sự tàn ác, sát hại nhiều người lúc còn trẻ vì chưa hiểu Phật giáo; nên về già, vua phải sống trong những hoàn cảnh vô cùng bi thảm : Hoàng hậu Đê-sa-la-xoa (Tassarakkha) muốn tư thông với Hoàng tử Câu-na-la (Kunala), nhưng bị cự tuyệt, nên Hoàng hậu sai người móc mắt Hoàng tử. Vua nổi giận, cho thiêu sống Hoàng hậu, và đem tất cả các của quí báu cúng dường và bố thí hết. Theo ngài Huyền Trang kể lại, về già, vua A-dục bị cháu nội và quần thần phế ngôi và lấy hết quyền hành, Ngài không còn gì để cúng dường cho chư Tăng; ngay cả phần ăn của Ngài cũng bị giảm dần, cuối cùng, họ chỉ cấp cho Ngài mỗi bữa ăn nửa trái Analaka; và vua cũng tặng nửa tráianalaka đó cho sư huynh.
Vua A-dục mất trong cảnh âm thầm và ảm đạm, không được ai biết đến, vào khoảng năm 231 trước Dương lịch.
Vào thời Hùng Vương, nước Văn Lang (Việt Nam) đã có phong tục tập quán và ngôn ngữ riêng của người Việt, khác với Trung Hoa. Người Việt thời Hùng Vương đã chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo Ấn Độ, đồng thời ngôn ngữ và văn minh Việt Nam thời xưa cũng đã có một số ảnh hưởng trong Đại Tạng Kinh Phật giáo.
Vào thời Nhà Triệu (207 TDl – 111 TDl), ở Việt Nam đã có chùa Phật rồi. Năm 111 trước Dương lịch, vua Hán sai hai tướng Duơng Bộc và Lộ Bác Đức đem quân đánh Nam Việt, Tể tướng Lữ Gia và vua Triệu Thuật Dương thua trận, chạy trốn. Trong sách “Thiên Nam Ngữ lục” của Thiền sư Chân Nguyên (1647-1728), kể chuyện Tể tướng Lữ Gia lánh nạn đến núi Sài Sơn ( hay núi Phật Tích ở tỉnh Hà Tây ngày nay), đã nhìn thấy “dấu tích của ngôi chùa Trúc Viên” hoang vắng :
“Gia bỏ cửa mốc nhà rêu,
Hang thần trật lối, hồn phiêu đường nào.
Nước nên thấy những đồng đao,
Cõi bờ tấc đất vào chầu Hán gia.
Non Sài tuyệt chẳng vào ra,
Thấy còn một dấu vườn là Trúc Viên,
Đìu hiu ngoài cảnh thiền thiên,
Thuở trưa quyên khóc, thuở đêm hạc sầu.”
Sau đó, Lộ Bác Đức bắt được vua và Lữ Gia, ba quan Sứ của quân Việt đem lễ vật và sổ bộ của ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam đến xin hàng. Lộ Bác Đức cho ba người ấy làm Thái thú ở ba quận để trị dân như cũ.
Nhà Hán lấy đất Nam Việt chia làm 9 quận : Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô, Uất Lâm (Quế Lâm), Hợp Phố (Nhà Tần là Tượng Quận, nay thuộc Liêm Châu), Châu Nhai và Đạm Nhĩ (hai đảo lớn trên biển), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Vua Tây Hán cử Thạch Đái trông coi 9 quận, trị sở đặt tại Mê Linh.Long Biên. Đến đầu, trị sở Giao Chỉ đặt tại
Vào năm 30, đầu thời Đông Hán (23-220), vua Hán Quang Vũ cử Tô Định làm Thái thú Giao Chỉ, trị sở được dời về Liên Lâu hay Luy Lâu (làng Dâu, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Thái thú Tô Định cai trị tàn bạo, tham lam, hà hiếp, bốc lột dân Việt.
Vào năm 39, Thái thú Tô Định giết chết Lạc tướng huyện Chu Diên là Thi Sách (chồng bà Trưng Trắc), vì vậy, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị khởi binh chống quân Hán. Hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị là con của Lạc Tướng huyện Mê Linh (Thời Nhà Hán đô hộ, huyện Mê Linh bao gồm vùng đất tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn Tây ngày nay).
Hai Bà đánh chiếm Phủ thành Liên Lâu, Tô Định bỏ chạy về Trung quốc, các quận Nam Hải, Hợp Phố, Cửu Chân, Nhật Nam … đều hưởng ứng. Hai Bà chiếm được 65 thành trì của vùng đất Lĩnh Nam (phía bắc lên đến tận vùng Động Đình Hồ của Trung quốc, phía nam xuống đến vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi của Trung Bộ ngày nay).
Như vậy, Phật giáo được du nhập vào Việt nam vào thời Hùng Vương, hay vào thời vua A-dục, vào khoảng thế kỷ III trước Dương lịch. Sau thời gian hình thành trong vài thế kỷ, Phật giáo Việt Nam bắt đầu phát triển vào thế kỷ đầu của kỷ nguyên Dương lịch và đạt đỉnh cao với Trung tâm Phật giáo Liên Lâu (hay Luy Lâu) vào thế kỷ II – III.
Còn tiếp...
Nguồn: daophatngaynay.com