Ninh vương Mạc Phúc Tư là một trong những thân vương giữ trọng trách cao trong triều đình nhà Mạc. Ông cũng là người đã thi hành tốt chính sách “tông tử duy thành” của người xưa.
Khu vực thành Dền (xã Liên Khê, Thủy Nguyên, Hải Phòng). (nguồn sưu tầm)
Làm quan đầu triều một thời
Ninh vương Mạc Phúc Tư, thụy hiệu là Phúc Triệu, con thứ hai của hoàng đế Mạc Thái Tông Đăng Doanh và hoàng hậu Đậu Thị Giang.
Ninh vương Mạc Phúc Tư sinh năm Giáp Thân (1524) tại Tam Giang, nơi thân phụ trị nhậm. Vương xuất thân ở một dòng họ nổi tiếng gốc làng Lũng Động, huyện Chí Linh, có nhiều người học rộng tài cao, lừng danh trong lịch sử nước nhà như Mạc Thiên Tích, Mạc Đĩnh Chi.
Hơn 20 năm, anh em, cha con hết lòng phò tá các vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng, nhưng vua Chiêu Tông ươn hèn, ngu tối theo lời xúc xiểm của bọn gian thần định hãm hại, nên tổ phụ được sự đồng tình của nhiều triều thần danh tiếng, được nhân dân quy phục đã phế truất Lê Cung Hoàng rồi lên ngôi Hoàng đế, vãn hồi thanh bình, thịnh trị.
Những năm Minh Đức (1527- 1530), Đại Chính (1530- 1540) triều Mạc, đất nước yên hàn, nhân dân yên đủ.
Tuổi niên thiếu của Ninh vương ở vào thời kỳ hưng thịnh của vương triều Mạc, nên được hưởng sự giáo huấn đầy đủ. Vương hiếu học, tư chất khoan hòa.
Ngày 25 tháng giêng năm Canh Tý (1540) vua cha băng hà, Hoàng huynh là thái tử Mạc Phúc Hải lên làm vua, tức vua Hiến Tông nhà Mạc.
Khi lên ngôi, nhà vua đã phong tước Ninh vương cho Hoàng đệ Mạc Phúc Tư. Sau đó trao cho Vương chức Thái tể.
Làm quan đầu triều một thời gian, Vương ra sức chỉnh đốn hai ban văn võ, điều hòa phương lược để lo cho yên dân, củng cố cơ nghiệp tổ tông.
Tháng 8 năm Ất Tỵ (1545), vâng mệnh vua anh, Ninh vương thân làm tướng chỉ huy quân 5 phủ đô đốc và các trấn đánh vào hành doanh của Lê Trang Tông Duy Ninh ở hạt Yên Mô (Ninh Bình).
Khi đội quân đến sông Phù Chẩn, đội tiên phong do chủ quan khinh địch nên bị phục quân của Lê Trang Tông và cánh quân do Trịnh Kiểm chỉ huy vây đánh.
Trận này nhà Mạc thất bại, Ninh vương thấy chưa thể đánh được liền rút quân về. Sau đó, thấy người em kế mình là Khiêm vương Kính Điển có tài, Ninh vương rất lấy làm mừng.
Trấn thủ vùng Hải Đông
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1546), vua anh băng hà, họ tôn thất và triều thần suy tôn Thái tử Mạc Phúc Nguyên lên ngôi báu. Lúc ấy Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi cùng Hoàng vương Mạc Chính Trung, Định vương Mạc Phúc Sơn gây biến rồi rút về chiếm cứ vùng đất Yên Quảng
Nhà Minh có ý lợi dụng việc này, Ninh vương xin chức Phụ chính đại thần cho Khiêm vương Kính Điển và xin đi trấn thủ vùng Hải Đông.
Khi ra trấn thủ vùng quan ải này, Ninh vương ra sức vỗ về dân chúng, tướng sĩ… Ninh vương đốc thúc đắp đê từ làng Định Vũ qua Đạo Tú đến hồ Quy, đào sông, khai ngòi, khai khẩn đất hoang, trồng cây gây rừng, khuyến khích nghề đánh bắt cá, mở chợ Chanh ở Yên Quảng an cư lạc nghiệp. Những đê, bãi, rừng nhà Mạc ở trong hạt do Ninh vương gây dựng ngày nay vẫn còn dấu tích.
Ninh vương cũng xây dựng nhiều thành quách, đồn trại, nơi luyện quân thủy, quân bộ như thành Dền hay thành Thạch Bích ở núi Thiểm Khê (xã Liên Khê, Thủy Nguyên ngày nay), đồn Xích Thể ở huyện Hoành Bồ, đồn Thư Cung ở huyện Cẩm Phả, thành Đồn ở bờ sông Chanh.
Do vậy, mà xứ Hải Đông trở thành phên dậu vững chắc của vương triều. Suốt mấy chục năm quân Lê – Trịnh không lấy lại được xứ Hải Đông. Ninh vương là người đã thi hành tốt chính sách “tông tử duy thành” (người tôn thất như bức thành bảo vệ triều đình) của người xưa.
Ninh vương Mạc Phúc Tư: Lo việc giữ trấn phên dậu
Lo việc giữ trấn phên dậu, Ninh vương Mạc Phúc Tư hết lòng lo liệu công việc. Khi Mạc Mậu Hợp bị hại, Ninh vương vẫn kiên thủ Hải Đông và sau tử trận khi bị quân Lê – Trịnh truy sát.
Chết thảm trong chiến trận
Tháng 2 năm Giáp Tý (1564) vua Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên băng hà, Thái tử Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi (1562- 1592). Các hoàng thân Khiêm vương Kính Điển, Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng phụ chính, Ninh vương vẫn giữ chức cũ, hết lòng lo liệu công việc giữ trấn phên dậu.
Tháng 10 năm Canh Thìn (1580), Khiêm Đại vương bị bệnh qua đời, một mình Ứng vương Mạc Đôn Nhượng phụ chính, giữ chức Trung doanh tổng sứ.
Ứng vương không đủ sức gánh vác việc lớn quốc gia. Thế lực nhà Lê Trung hưng ngày một mạnh mà triều thần nhà Mạc lúc ấy chia rẽ, vua ít tuổi lại ham chơi, chính sự ngày càng đổ nát.
Tháng chạp năm Nhâm Thìn (1592), vua Mạc Mậu Hợp bị bắt rồi bị hại. Sau đó, Đường An vương Mạc Kính Chỉ, Đôn Hậu vương Mạc Kính Cung đã cố gắng lên ngôi vua để khôi phục cơ nghiệp, nhưng thời vận không còn, lòng người ly tán nên lần lượt đều thất bại và tan rã.
Lúc vua Hồng Ninh (Mạc Mậu Hợp) bị hại, Ninh vương vẫn kiên thủ Hải Đông. Đến năm Quý Tỵ (1593), sau khi đánh chiếm được Thăng Long, Dương Kinh, Tuyên Quang, Kinh Bắc… quân Lê – Trịnh chia đường tiến đánh Hải Đông, Ninh vương chỉ huy quân trong trấn chống cự, đồn Như Cương bị đánh tan, quân nhà Mạc chạy vào hang núi Cốt Mìn, quân Lê – Trịnh gọi hàng không được đã đốt lửa hun khói vào hang làm cho các tướng sĩ và gia nhân chết ngạt.
Thủy quân Mạc thấy vậy, phân tán rút ra các đảo, Ninh vương cùng hai thân vương khác chỉ huy một cánh quân rút về căn cứ ở Thủy Đường. Quân Lê – Trịnh truy đuổi, ba quân tướng sĩ cùng liều mình quyết chiến, đến xã Thiểm Khê thì đều bị trọnag thương.
Quân Lê – Trịnh tiếp tục truy kích, ba vương đã tử trận. Con cả Ninh vương là Mạc Thuần Trực cùng tôn thất Mạc Huệ Khánh cố thủ thành Dền được 5 tháng, sau hết lương thảo phải mở đường rút chạy.
Mạc Huệ Khánh cùng con cháu chạy thoát về vùng giáp sơn, giấu họ đổi tên lập ra làng Mai Sơn, nay thuộc khu chùa Trại Sơn, xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Mộ Ba vương
Khi Ba vương tuẫn tiết, an táng tại cánh đồng làng Thiểm Khê, phần mộ ba vương dân trong vùng gọi là mả Ba vua – Nghè Đồng dưới, dân lập nghè thờ ba vị.
Sau phu nhân của Ninh vương là Đoàn Thị Từ Linh chuyển hài cốt của Ninh vương và hai con trai là Thuần Trực ở thành Dền về táng tại Đống Án, phường Câu Tử, huyện Thủy Đường.
Gia phả họ Mạc ở Câu Tử chỉ chép một phu nhân của Ninh vương là Đoàn Thị Từ Linh, người phường Hùng Khê, nay thuộc xã Hợp Thành, Thủy Nguyên.
Phu nhân sinh được ba con trai là Mạc Thuần Trực, Mạc Đạo Trai và Mạc Tảo An. Mạc Thuần Trực được lập tước, hy sinh khi thành Dền bị thất thủ năm Quý Tỵ (1593).
Mạc Đạo Trai là tướng võ, năm Quý Dậu (1573), theo Khâm vương hành quân vào Thanh Hóa, bị bắt ở lũy Phúc Bồi, Trịnh Tùng mến tài gả con gái Trịnh Thị Nhâm cho.
Mười năm sống ở Thanh Hóa đến khi họ Trịnh muốn lợi dụng ông chống lại dòng họ mình, Mạc Đạo Trai đã tự sát. Bà Trịnh Thị Nhâm vô cùng thương cảm, xin Trịnh Tùng nhận Mạc Hữu Đạo, con Mạc Thuần Trực về nuôi dạy thành tài.
Lớn lên thi đỗ làm quan tới chức Thượng xá hầu triều Lê- Trịnh. Được một thời gian, ông xin từ quan để cung dưỡng mẹ già Trịnh Thị Nhâm cho tròn đạo hiếu.
Tuấn Đạt - Khoahocdoisong.vn