232 lượt xem

Hoàng Tăng Bí

Phó bảng Hoàng Tăng Bí (1883-1939) - “nhà yêu nước nhiệt thành, vị túc nho uyên thâm”

Cụ Phó bảng Hoàng Tăng Bí (1883-1939), quê ở Đông Ngạc, phủ Hoài Đức nay là xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cùng với Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Tăng Bạt Hổ, Lê Đại, Lương Trúc Đàm, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Hữu Tiến… Cụ đã góp phần quan trọng vào việc sáng lập trường Đông kinh Nghĩa thục và tổ chức hoạt động phong trào duy tân ở Hà Nội đầu thế kỷ XX - đổi mới và hội nhập văn hoá thế giới trên cơ sở giữ vững quốc hồn dân tộc, đồng thời chấn hưng kinh tế làm cho dân giàu nước mạnh...

Xuân này, về thăm nhà Tổ của chi họ Hoàng Tăng Bí ở xóm 3  Đông Ngạc, chúng tôi càng thêm thấm thía giá trị văn hoá dân tộc mãi trường tồn cùng năm tháng.

Cái nôi nuôi dưỡng một nhân cách, một cuộc đời vì nước


Cụ Phó bảng cất tiếng khóc chào đời năm 1883 tại làng Đông Ngạc, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đất Đông Ngạc có truyền thống hiếu học và gia tộc họ Hoàng có nhiều người đỗ đại khoa. Cụ Hoàng Đình Hân (1715- 1789) nguyên ở đất Đông Bình, huyện Gia Bình trấn  Kinh Bắc (nay  là huyện Gia Lương, Hà Bắc) làm quan tới chức Đặc tiến kim tử Vĩnh lộc đại phu, được phong tước Gia Diễn hầu. Hoàng Nguyễn Thự là con trưởng của cụ, sinh năm 1749 tại phường Đông Các, huyện Thọ Xương. Năm 1778, Hoàng Nguyễn Thự lấy con gái yêu của thầy dạy - cụ Giải nguyên Phạm Gia Huệ là bà Phạm Thị Hội ở thôn Đông Ngạc. Từ đó, đất Đông Ngạc trở thành quê hương của  một chi họ Hoàng và họ Hoàng đã góp phần làm rạng danh đất Đông Ngạc khoa bảng. Năm 1787, cụ Hoàng Nguyễn Thự đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi - khoa thi cuối cùng của triều Lê, sau đó cụ được triều Tây Sơn cử giữ chức Hiệp trấn Lạng Sơn (1797-1801) và mất tại đây. Cụ để lại cho đời hai tác phẩm thơ Di thảo tập thượng và Di thảo tập hạ, thể hiện lòng yêu nước, yêu quê hương  sâu sắc. Cụ được coi là Tổ của họ Hoàng ở Đông Ngạc.

Nối nghiệp cha, con trai út của cụ là Hoàng Tế Mỹ (1795-1849) đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Bính Tuất (1826). Cụ làm quan trải ba đời vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức và được thăng tới chức Tham tri Bộ Binh; khi mất được truy tặngThượng thư Bộ Lễ. Trước khi mất, ngôi nhà của tổ tiên để lại, cụ Hoàng Tế Mỹ đã sửa khang trang để thờ cúng, nên cổng nhà thờ có đại tự “Đông Hoàng Tổ miếu”, đến nay vẫn còn.  

Đời nối đời, con trai cả của cụ Hoàng Tế Mỹ là Hoàng Tướng Hiệp (1835-1885) đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu (1865), làm Án sát xứ Lạng Sơn rồi Tuần phủ Tuyên Quang (1877), sung tham tán quân vụ đại thần. Hoàng Tăng Bí là đời thứ 5 của gia tộc họ Hoàng ở Đông Ngạc, tính từ cụ tổ  Hoàng Nguyễn Thự.

Dạy chữ quốc ngữ và mở Công ty Đông Thành Xương

Sinh trưởng trong gia tộc họ Hoàng có truyền thống hiếu học và  yêu nước, Cụ Hoàng Tăng Bí sớm đi theo tiếng gọi cứu dân cứu nước. Năm 1906, Cụ đỗ Cử nhân cũng là lúc ngọn gió canh tân từ Nhật Bản, Trung quốc thổi vào Hà Thành. Những tân văn, tân thư của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu - bạn “đồng văn đồng chủng” bay sang đất nước Việt đau thương sau bao cuộc khởi nghĩa thất bại đã cổ vũ, thúc giục các sĩ phu yêu nước tìm đến con đường duy tân để cứu nước. Đầu năm 1907, trường  Đông kinh Nghĩa  thục (ĐKNT) đã được thành lập ngay tại số 4 Hàng Đào - nhà của cụ Cử Lương Văn Can để khai  trí cho dân, mở lớp dạy học không lấy tiền, tổ chức diễn thuyết, cổ động trong nhân dân. Trường do cụ Lương Văn Can làm Thục trưởng, cụ Nguyễn Quyền làm Giám học. Cụ Hoàng Tăng Bí tham gia cả Ban giáo dục, dạy Hán văn và Ban cổ động của ĐKNT.
 

Trường Đông kinh Nghĩa Thục ở phố Hàng Đào, Hà Nội
(Nguồn: Sưu tập)

 

Nhiệt tâm dạy chữ quốc ngữ, xoá nạn mù chữ cho người dân từ ngõ phố đến thôn quê, chỉ trong một thời gian ngắn, ĐKNT đã mở được bốn phân hiệu ở cả Hà Đông và Sơn Tây. Theo Lý Tùng Hiếu, trong sách “Lương Văn Can và phong trào Đông Du” (2005) thì: Riêng phân hiệu ở quê hương Chèm Vẽ của Hoàng Tăng Bí trực tiếp chỉ đạo và do Tú tài Nguyễn Hữu Tiến, Thủ khoa Nguyễn Châu Đỉnh, hai anh em Phan Tuấn Phong, Phan Trọng Kiên  tổ  chức.

Không chỉ giảng dạy khắp các vùng Chèm Vẽ, Hà Đông, Hoàng Tăng Bí còn đi diễn thuyết, cổ động cho tư tưởng duy tân, học vấn đi đôi thực nghiệp, kinh doanh, mở mang công thương, nhưng phải lấy chữ Tín làm đầu, làm cho dân giàu nước mạnh. Những diễn giả Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, được công chúng hâm mộ và nổi tiếng về tài diễn thuyết đi vào lòng người. Vì vậy thơ khuyết danh mới có câu: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/ Kỳ bình văn khách đến như mưa”.


 

Bức Hoành phi trong nhà thờ chi họ Hoàng ở xóm 3, Đông Ngạc, Hà Nội
(Nguồn: Sưu tập)

 

Làm gương cho dân chúng và cũng là gây quỹ hoạt động cho nhà trường, các sĩ phu đã hùn vốn mở công ty. Hoàng Tăng Bí mở Công ty Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai. Đó cũng chính là tư gia của ông ngoại - cụ Nguyễn Trọng Hiệp, Kinh lược xứ triều Nguyễn và là thầy dạy vua Thành Thái. Công ty chuyên buôn bán hàng nội và mở xưởng dệt xuyến hoa, làm  trà ướp… Kính phục Hoàng Tăng Bí và các sĩ phu, trong diễn ca “Nam Thiên phong vận”, nhân dân ca ngợi các cụ: “Xã Đông Ngạc Hoàng quân Tăng Bí/Tánh thông minh tuổi trẻ khác thường/Tướng môn dòng dõi họ Hoàng/Á môn giá cũng xem thường nhẹ không/ Đêm ngày dốc một lòng vì nước/Đông Thành Xương đứng trước ra buôn… Cho hay những bậc tài danh/ Vì giang sơn phải dấn mình bước ra”.  Những hoạt động yêu nước của ĐKNT và vụ đầu độc để giết lính Pháp trong Thành Hà Nội (1908) làm cho thực dân Pháp kinh hoàng. Chúng dẹp ĐKNT mà chúng gọi là “cái lò phiến loạn ở Bắc Kỳ”, bắt đóng cửa trường và công ty của các sĩ phu hoạt động cho ĐKNT. Tháng 10/1908, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Vũ Hoành bị kết án khổ sai chung thân, Dương Bá Trạc 15 năm tù; Hoàng Tăng Bí bị kết án 5 năm khổ sai đưa đi Côn Đảo. Nhờ có nhạc phụ là Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục can thiệp và bảo lãnh, sau một năm ở Hỏa Lò, cụ bị đưa đi quản thúc tại Huế 15 năm. Người vợ hiền là Cao Thị Thuyên thay ông nuôi dạy các con là Hoàng Minh Bàn, Hoàng Minh Giám, Hoàng Luyện Thiết, Hoàng Dụng Huyên thành tài.

 

Phố Hàng Gai, nơi cụ Hoàng Tăng Bí mở Công ty Đông Thành Xương
(Nguồn: Sưu tập)

 

Nặng lòng với nước

Trong thời gian  phải ở Huế đằng đẵng 15 năm, biến cái rủi thành cái may, cụ dùi mài kinh sử đi thi và đỗ Phó bảng năm 1910; sau đó, viết kịch bản của ba vở tuồng: Đệ bát tài tử Hoa Tiên ký, nhà in Mạc Đình Tư xuất bản, 1913; Nghĩa nặng tình sâu (tuồng Mị Châu Trọng Thủy)  nhà in Nghiêm Hàm xuất bản, 1926; Thù chồng nợ tước (tuồng Trưng Trắc Trưng Nhị), nhà in Tân Dân xuất bản, 1927. Là một nhà nho, nhưng cụ  mượn thể loại nghệ thuật tuồng mang tính ước lệ, bi thiết cao để thể hiện được bao nỗi hoài vọng, bi phẫn của mình chăng?

Sau 15 năm bị quản thúc ở Huế, năm 1929, Hoàng Tăng Bí như chim bay về tổ ấm quê hương, gia  đình… Nhiệt thành yêu nước, cụ trở lại  với  nghề  dạy học xưa, dạy Việt văn ở trường Gia Long nhưng thực dân Pháp biết tiếng cụ đã cấm không cho dạy. Cụ cộng tác với báo Trung Bắc tân văn, viết nhiều bài sâu sắc về đạo đức, nhân cách của người cầm bút trong thời đại Âu hóa với quan niệm tiến bộ của người trọng Lễ Nghĩa Trí Tín. Ngoài ra, cụ còn dịch một số tác phẩm của văn học Pháp như Paul et Virgine; La chaumière indienne của Bernadin de Saint Pierre; Le comte de Monte Cristo của Alexandre Dumas, nhưng không có điều kiện xuất bản. Đặc biệt, cụ đã nghiên cứu và viết cuốn Lược khảo Lịch sử Trung quốc, lấy bút danh Tiểu Mai mong người nước Nam soi vào gương thành bại của họ để cứu nước.

Chí khí và lòng yêu nước của cụ đã có ảnh hưởng lớn đến con trai - giáo sư Hoàng Minh Giám từ thuở thiếu thời. Trong khi cụ Hoàng Tăng Bí còn bị quản thúc ở Huế thì ông Hoàng Minh Giám đã hoạt động trong phong trào yêu nước và dân chủ của thanh niên, viết cho báo Tiếng chuông rè của Nguyễn An Ninh, Người nhà quê của Nguyễn Khánh Toàn, Nước  Nam mới của Phan Văn Trường.


 

 Ban thờ chi họ Hoàng Tăng Bí 
(Nguồn: Sưu tập)

 

Trở về Hà Nội năm 1929, cụ không chỉ hoạt động văn hoá mà còn là trụ cột vững chắc cho tư tưởng và hành động của ông Hoàng Minh Giám khi quyết định mở trường tư thục Thăng Long năm 1935. Trong lễ kỷ niệm 65 năm ngày thành lập trường, giáo sư Hoàng Minh Giám đã viết: “Trong thâm tâm  của anh em chúng tôi, cái danh từ nền tư thục gợi nhớ đến Đông kinh Nghĩa thục… Chúng tôi thầm nghĩ trường Thăng Long phải xứng đáng là một nghĩa thục theo gương Đông kinh Nghĩa thục nhưng phải khôn khéo để có thể tồn tại lâu dài”. Nối nghiệp Đông kinh Nghĩa thục trong hoàn cảnh mới, các giáo sư Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám… đã đào luyện hàng nghìn học trò yêu nước đi theo con đường cách mạng. Cụ Hoàng Tăng Bí hài lòng và hạnh phúc vì đã có người con nối chí nối nghiệp xuất sắc, giúp dân cứu nước, an lòng về với tổ tiên họ Hoàng ở quê hương Đông Ngạc năm 1939.

Vĩ thanh

Trải qua gần một thế kỷ, vẫn còn nguyên trong khuôn viên khu nhà thờ tổ - tính từ cụ tổ của chi họ thứ ba là Hoàng Tướng Hiệp - ông nội cụ Hoàng Tăng Bí, bức hoành phi lớn đã được sơn son thếp vàng, sắc phong vua ban trang trọng đặt trong bàn thờ tổ. Từ mảnh đất Đông Ngạc khoa bảng và hưởng  phúc ấm tổ tiên, con cháu cụ Phó bảng Hoàng Tăng Bí đã nối nghiệp ông cha, đóng góp cho dòng tộc, quê hương, đất nước như: GS Hoàng Minh Giám, Cô giáo hiệu trưởng trường cấp I Thăng Long Hoàng Diệu Uyển, GS-TS Hoàng Vĩnh Giang, GS-TS Hoàng Thuỷ Nguyên, GS-TS Hoàng Thuỷ Long… Một đường phố của Thăng Long ngàn năm được đặt tên Phố Hoàng Tăng Bí là thể hiện sự tri ân thành kính với sĩ phu, nhà văn hoá Hoàng Tăng Bí (Thành phố Hồ Chí Minh đã có đường phố mang tên cụ Phó bảng ở quận 12).

Nguồn: baotanglichsu.vn