Ngô Chi Lan tự Quỳnh Hương, còn có tên Nguyễn Hạ Huệ, sống vào triều Lê Sơ. Bà là một tài năng thi ca ở nửa sau thế kỷ 15 của đất nước.
Theo Lịch sử họ Ngô Việt Nam do tác giả Ngô Đức Thắng chủ biên thì Ngô Chi Lan là con gái của Thanh Quốc công Ngô Khế, một công thần triều Lê. Ông là em trai Quang thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, con Diên ý Dụ vương Ngô Từ và là cậu ruột của vua Lê Thánh Tông.
Vì có cô (bác) là Ngô Thị Ngọc Dao, thứ phi của Vua Lê Thái Tông nên lúc còn nhỏ Ngô Chi Lan thường được theo cô vào cung Khánh Phương hầu hạ.
Bấy giờ bà Nguyễn Thị Lộ, vợ thứ quan Hành khiển Nguyễn Trãi, lấy chồng đã lâu mà không có con, bà được Ngô Thị Ngọc Dao giới thiệu cháu gái Ngô Chi Lan cho làm con nuôi, đổi tên gọi là Nguyễn Hạ Huệ. Năm 1442, Khi xẩy ra thảm án Lệ Chi Viên, vợ chồng Nguyễn Trãi bị xử tội chết, Ngô Chi Lan được bố trí trốn về làm con nuôi cho một gia đình ở huyện Kim Hoa. Sau này bà lấy Giáo thụ Phù Thúc Hoành, người làng Phù Xá, một bậc tài danh đang làm ở Viện Hàn Lâm, dậy kinh Dịch ở Quốc Tử Giám.
Lê Thánh Tông lên ngôi, sau khi ban chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, đã phong Ngô Chi Lan làm Phù Gia nữ học sĩ để tiếp tục công việc của mẹ nuôi, dậy lễ nghi và văn thơ cho các cung nhân trong triều.
Ngô Chi Lan nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc và viết chữ đẹp. Chính vì vậy, mà bà đã được vua Lê Thánh Tông ban hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ; cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn. Tuy là phụ nữ lại không phải là thành viên Tao đàn Nhị thập bát tú, nhưng vì thơ văn nức tiếng, được nhà vua là Tao đàn Nguyên soái ưa chuộng, Chi Lan thường được dự các buổi bình thơ, được ưu ái ngâm các tác phẩm mới sáng tác của mình. Mỗi khi nhà vua đi du ngoạn, hoặc dự yến tiệc ở bất cứ nơi đâu, học sĩ Ngô Chi Lan đều phải mang nghiên bút theo hầu. Vì có biệt tài sáng tác, xuất khẩu thành thơ, nên khi phóng bút, ít khi bà phải sửa chữa, dù chỉ là một câu, một chữ.
Tương truyền, một lần nhà vua đi dạo, dừng chân thưởng ngoạn tại Thanh Dương Môn, chợt thấy làn mây biếc la đà trên mái điện bèn sai quan thị họ Nguyễn làm từ vịnh cảnh. Khi từ khúc Uyên ương dâng lên, nhà vua không vừa ý và truyền ngay nữ học sĩ họ Ngô làm bài khác. Ngô Chi Lan vâng mệnh rồi thảo luôn một chương tuyệt phẩm, trong đó hai câu kết:
Điện ngọc ngói mời mây biếc phủ
Cẩm Giang sóng lụa sắc hồng dâng
Nghe xong, nhà vua lấy làm đắc ý, khen tài văn hay chữ tốt của nữ học sĩ nhà họ Phù, từ đó ban hiệu là Phù gia nữ học sĩ, thưởng cho năm đĩnh vàng.
Một buổi tối, bà được Ngô Thái hậu cho tháp tùng du ngoạn trên núi Vệ Linh (tức núi Sóc, thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn ngày nay). Dạt dào trước sự tích đức Thánh Gióng, đệ nhị Tứ bất tử trên thần điện của người Việt, nữ sĩ cảm tác nên bài tứ tuyệt:
Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn
Muôn tía nghìn hồng đẹp thế gian
Ngựa sắt lên trời tên rạng sử
Anh hùng còn mãi với giang san.
Bài thơ ra đời, ngay lập tức không những mọi người ở trong nội cung đều biết, mà còn lan truyền ra cả ngoài phố thị, ai cũng ca ngợi và xếp vào hạng tuyệt tác. Nhà vua cũng ngỏ lời khen bà và ban tặng một cặp áo gấm màu lục, ngoài có phủ áo sa mỏng màu thiên thanh. Bài thơ đó nay vẫn được lưu giữ trong đền Sóc.
Tên tuổi Phù gia nữ học sĩ Ngô Chi Lan ngày càng tỏa sáng, tiếng tăm ngày càng vang xa, khiến tao nhân mặc khách thời đó vô cùng kính nể. Bên cạnh đó, do có biệt tài lại được nhà vua ưu ái nên bà không tránh khỏi bị một số kẻ tiểu nhân ghen ghét, xúc xiểm.
Khi vua Lê Thánh Tông băng hà, nhân ngày lễ đại hành (lễ đặt thụy hiệu) Nữ học sĩ cảm kích khóc điếu Tiên Hoàng bằng bài Đường luật nổi tiếng:
Ba chục năm dư ngự điện vàng
Chín châu bốn bể gội ân quang
Đông Tây mở đất miền cương giới
Sự nghiệp ngang trời mệnh đế vương
Tuyết phủ xe tiên mờ mịt bóng
Hoa chờ vườn ngự bẽ bàng hương
Quán triều canh vắng còn thơ mộng
Sầu ngắm Kiều sơn lệ mấy hàng.
Về sau Ngô Chi Lan về nghỉ và mất ở Phù Lỗ, quê hương Tiến sỹ Phù Thúc Hoành chồng bà, tục gọi Phù Gia trang.
Hầu hết các tài liệu viết về Ngô Chi Lan đều không cho biết năm sinh, năm mất của bà. Trong bài “Nữ học sĩ Ngô Chi Lan” đăng trên trang thanglonghanoi, tác giả cho biết, Nữ sĩ Ngô Chi Lan sinh năm 1434, mất năm 1497 nhưng không biết thông tin ấy lấy từ nguồn nào, nên cũng chưa thể khẳng định được.
Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ Nữ học sĩ Ngô Chi Lan, sau khi bà mất, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ bà ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình nữ sĩ (nay thuộc thôn Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội), gọi với tên dân dã nhưng kính trọng là “Miếu Nhà Bà”. Đền thờ đã qua mấy lần trùng tu, phục dựng, hiện nay là một ngôi nhà 3 gian thấp nhỏ, nằm khiêm tốn gần ngôi đình làng. Phía trước đền có một tấm bia đá cổ, có lẽ được dựng từ rất lâu vì chữ khắc trên bia đã bị năm tháng bào mòn, hầu như không còn chữ nào đọc được. Mộ bà đặt ở cánh bãi Tây Nguyên, bên kia sông Cà Lồ, cách Miếu Nhà Bà chừng 1 Km, thuộc xóm Tiên, xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh. Trước đây khu này thuộc địa phận làng Phù Lỗ, nhưng sau này do phân định lại địa giới hành chính, lấy sông Cà Lồ làm mốc giới, bên này sông là huyện Sóc Sơn, bên kia sông là huyện Đông Anh cho nên khu đất này nay thuộc Đông Anh. Cạnh mộ, nhân dân xây một ngôi miếu nhỏ thờ bà. Trải qua năm tháng, ngôi miếu được sửa sang nhiều lần, năm 2015 nhân dân địa phương đã cho tu sửa lăng mộ, nâng cấp ngôi miếu thành một đền thờ khang trang, đẹp đẽ.
Nhân dân địa phương lấy ngày 17 tháng 9 Âm lịch làm ngày giỗ Nữ học sĩ Ngô Chi Lan. Hàng năm, đến dịp này nhân dân trong vùng lại kỷ niệm ngày giỗ bà, tổ chức lễ hội trang trọng và rất vui. Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày: 15, 16, 17 tháng Chín Âm lịch, khách thập phương về dự rất đông.
Sinh thời Ngô Chi Lan sáng tác rất nhiều thơ, phần ứng khẩu, phần phóng bút… nhưng vì đa số do không được gom lại thành tập, nên sớm bị thất lạc. Bà có tập thơ duy nhất là tập thơ chữ Hán có nhan đề “Mai trang tập” (Tập thơ vườn mai), nhưng rất tiếc sau cũng đã thất truyền. Hiện thơ bà chỉ còn lại trên dưới mười bài in rải rác trong một số sách văn học sử, trong đó có: Chùm thơ vịnh bốn mùa gồm 4 bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Hán; Chùm thơ vịnh bốn mùa với 4 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Nôm (dịch Nôm 4 đoạn đầu của 4 bài thơ chữ Hán trên); Vịnh núi Vệ Linh viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt; Thái liên khúc (Khúc hát hái sen) gồm 2 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán; Thơ vịnh truyện Tô Vũ viết bằng chữ Nôm, và bài Thơ điếu vua Lê Thánh Tông viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú.
Thơ của Ngô Chi Lan được các nhà phê bình văn học nhận xét là đã mang bản sắc riêng, không khuôn sáo gò ép, đẹp cả ý và lời, thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cảnh vật với những chi tiết chân thực của đời sống và có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời và con người. Bà là một tài thơ của nửa sau thế kỉ 15 được người đương thời đánh giá cao. Có thể coi Ngô Chi Lan là nhà thơ nữ đầu tiên của Việt Nam, có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thơ ca của đất nước.
https://ngotoc.vn