Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông vua đầu tiên trong lịch sử Việt xóa bỏ ách đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, Trong Đại Việt sử thi của Hồ Đắc Duy có ghi chép rằng.
“Một chiến thắng ngàn năm để lại
Sông Bạch Đằng mãi mãi thiên thu
Đường Lâm xây dựng cơ đồ
Ngô Vương lưu dấu để cho đến giờ”
Sau đại thắng Bạch Đằng lừng danh kim cổ, đập tan hơn 2 vạn tinh binh của quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương và mở ra một thời trung hưng rực rỡ cho dân tộc. Trong sử sách, các chuyên gia sử học đã ưu ái gọi ông là “vua của các vị vua”. Dù quá khứ đã lùi xa trên 1000 năm, song trận Bạch Đằng lưu danh sử sách và tiếng tăm của vị vua tài ba, sách lược vẫn là đồng thời là biểu tượng sáng ngời cho ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử và là động lực quan trọng để khơi dậy đánh thức tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc để xây dựng đất nước hưng thịnh thời kỳ hội nhập. Trong bài viết sau đây, chúng ta hãy cùng tìm hiểu cụ thể hơn về tiểu sử cũng như những mốc son quan trọng trong cuộc đời của vị hoàng đế lỗi lạc này các bạn nhé.
1. Tiểu sử, gia đình của người hùng mảnh đất Đường Lâm - Ngô Quyền
Theo các tài liệu sử Việt có ghi chép lại, Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm 898 trong một gia đình “đời đời quý tộc” tại làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội ngày nay, cùng quê với ông vua “đánh hổ” Phùng Hưng.
Sinh ra trong một dòng họ hào trường có thể lực và được đông đảo người dân địa phương mến mộ. Cha của ông là Ngô Mân - một thứ sử có tài đức. Sinh ra trong thời đất nước bị đô hộ, được cha dạy bảo từ tấm bé và truyền thống yêu nước của “mảnh đất hai vua” hun đúc, ngay từ nhỏ Ngô Quyền đã tỏ ra là con người khẳng khái, có chí lớn. Khi trưởng thành, Ngô Quyền được đánh giá là cường tráng, khôi ngô, người con Đường Lâm còn chằm rèn luyện võ nghệ để chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân đô hộ. Mô tả Đức Ngô | Vương thời trẻ, sử cũ có viết “vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có chí dũng, sức có thể nhấc vạc dơ cao".
Năm 20 tuổi, ngưỡng mộ trước tinh thần yêu nước và hào hiệp của Dương Đình Nghệ, một tướng dưới trướng họ Khúc ở đất Ái Châu, người từng đánh đuổi quân Nam Hán vào năm 931 và chiếm được Đại La - bước đệm đầu tiên thúc đẩy cho phong trào đấu tranh chống lại quân đô hộ phương Bắc. Dương Đình Nghệ cũng là người xưng chức Tiết độ sứ và trấn sử Ái Châu.
Ngô Quyền quyết định đi theo. Nhờ tài năng thao lược, mưu cao, mẹo giỏi và nhiệt huyết cứu đời, ông được Dương Đình Nghệ yêu mến và gả con gái là Dương Thị Ngọc cho, đồng thời trao quyền cai quản Ái Châu. Trong suốt thời kỳ từ 931 - 938, với vai trò là thủ lĩnh Ái Châu, ông đã trổ tài lực để mang lại an vui cho dân địa phương.
2. Ngô Quyền và quyết tâm ra Bắc diệt Kiều Công Tiễn báo thù cho cha vợ
Trước khi nhắc đến Ngô Quyền với tư cách là một trong những vị vua tài ba trong lịch sử hay đầu tàu tối cao của đội quân chống Nam Hán, chí khí của thủ lĩnh Ái Châu được thể hiện rõ nét qua sự kiện mang quân ra Bắc diệt Kiều Công Tiễn.
Sử có ghi lại, mùa xuân năm 937, Dương Đình Nghệ bấy giờ là tiết độ sứ Giao Châu, bị một nhà tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết hại để đoạt chức. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn tạo ra một làn sóng căm giận, sục sôi trong dân chúng và vấp phải sự phản đối kịch liệt của các tướng sĩ vì soán ngôi bất minh. Hoảng sợ trước viễn cảnh đen tối, phế tướng họ Kiều hết sai lầm này sang sai lầm khác, hắn cho quân sang cầu cứu nhà Nam Hán. Hành động “cõng rắn cắn gà nhà” này đã châm ngòi cho quân Nam Hán lăm le xâm phạm nước ta.
Trước “Nợ nước, thù nhà”, Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đầu chiêu mộ nghĩa quân từ khắp Ái Châu ra Bắc, tiến vào thành Đại Là để diệt trừ tên phản nghịch Kiều Công Tiễn.
Trong tiết trời mưa phùn, gió bấc vào năm 938, Ngô Quyền đưa quân lớp lớp vượt đèo Ba Dội ra Bắc để rửa thù. Trong bối cảnh, quân xâm lược đang mon men ngoài bờ cõi, đầu tên phản tướng Kiều Công Tiễn đã bị nghĩa quân treo bêu trên cổng thành Đại La. Bước đầu tiên trong đại kế diệt trừ nội phản và tiêu diệt quân xâm lược đã hoàn thành được một nửa. Thế nhưng kẻ thù lớn, hống hách và nguy hiểm là giặc ngoại xâm trước thế cầu cứu của Kiều Công Tiễn đang ngấp nghé bờ cõi, Ngô Quyền quyết định họp bàn các tướng tài lên kế sách để chống lại nhà Nam Hán. Tập hợp nghĩa quân, dàn trận như thần...Mọi điều kiện để chống Nam Hán đã chuẩn bị “lên cót” một cách khẩu trương để nghênh tiếp hơn 2 vạn đại quân Nam Hán.
3. Đại thắng Bạch Đằng - lưu danh sử sách
Ngay sau khi trừ khử được nội phản, Ngô Quyền vào thành tụ họp các tướng tá và bàn kế. Với tài năng thao lược hơn người, người hùng xứ Đường Lâm nhận định :* Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được” Nhưng ông cũng thừa nhận quân địch có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng trước thì chuyện được thua cũng chưa thể biết được.
Biết trước được mưu đồ của nhà Hán là “Xuất binh theo hướng Bạch Đằng tấn công” (Tân Ngũ Đại sử), Trước thế giặc đồng, hống hách và được trang bị đầy đủ về phương tiện, là người văn võ toàn tài, ông cũng nắm rõ được quy luật lên xuống của sông Bạch Đằng.
sử cũ có chép về dòng sông này còn gọi là sông Rừng, Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến".
Đã thế, hạ lưu sông thấp, độ dốc không cao, do vậy ảnh hưởng của thủy triều cực kỳ lớn. Lòng sống đã rộng lại sâu, nước thời điểm thủy triều rút có thể xuống đến 30 cm mỗi giờ. Trong đó mực nước chênh lệch giữa lúc cao và lúc thấp có thể vươn cao đến 2,5 - 3 mét. Dựa trên địa thế này, Ngô Quyền cho rằng “Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vật nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy cả”.
Trước sự ủng hộ của nghĩa quân, ông cho người lên rừng đẫn những cây gỗ lim vót thành cọc và đầu bịt sắt, sau đó cho lên thuyền và đóng xuống lòng sông và dọc theo hai bờ sông Bạch Đằng để cản sức tiến công của địch. Nhà sử học Lê Văn Hưu đã nhận định “Ngô Quyền là người mưu cao, đánh cũng giỏi”. Khi nước triều lên, ông cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến và rút nhanh để dụ giặc vào bãi cọc. Thuyền của địch chủ yếu thuộc vào dạng lớn, khi nước sông Bạch Đằng xuống, thuyền dễ bị mắc kẹt, nghĩa quân ta sẽ tập trung lực lượng để làm một trận nhanh chóng, triệt để.
Nói rồi làm, vào một ngày cuối đông năm 938, hơn hai vạn tinh binh cầm đầu bởi Vạn Vương Hoằng Tháo ùn ùn tiến vào nước ta theo đường thủy lên sông Bạch Đằng. Quân ta cho thuyền nhỏ bơi ra lòng sông để nhử giặc và bãi cọc. Thuyền của đội quân Hoằng Tháo hăm hở đuổi theo vào bãi cọc ngầm mà không hề hay biết. Thủy triều đến, nước rút nhanh, những chiếc thuyền địch bị mắc kẹt, tiến không tiến, lùi không lùi được. Nhân cơ hội, nghĩa quân Việt đã mai phục hai bên đánh giáp lá cà. Một đội quân thủy mạnh đã được lên kế hoạch đi thuyền nhỏ để đánh trực diện.
Kể sách có một không hai này làm đến đội quân hùng mạnh nhà Nam Hán rơi vào thế bí, cả hơn 20.000 quân bị tổn hại đến hơn một nửa, tướng cầm đầu là Hoằng Tháo cũng bị tử trận và vùi xác trong sóng Bạch Đằng Giang.
Nhuệ khí của nghĩa quân được lãnh đạo bởi Ngô Quyền mạnh tới mức, quân địch đang đóng sát biên giới cũng không dám tiếp ứng. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm, chỉ còn cách khóc thương con và cố gắng thu nhặt tàn quân trở về nước. Bất ngờ đến kinh hoàng và không thể chấp nhận được thất bại, Vua Nam Hán đã đổ toàn bộ tội lỗi này cho trước tước tá lang Hầu Dung với tội danh “Không làm cho tinh thần quân phấn chấn”. Dù đã chết, vị tướng này vẫn bị đối xử một cách tàn bạo tới mức, bị quật mộ phơi thây để hả giận không thương tiếc.
Cuối năm 938, trận sông Bạch Đằng chống giặc ngoại xâm đã dành được chiến thắng oanh liệt.
4. Ngô Quyền - Người đặt nền móng cho nhà nước quân chủ đầu tiên tại Việt Nam
Chiến thắng Bạch Đằng hiển hách, này không chỉ khẳng định được tài trí, mưu lược của Ngô Quyền mà đặc biệt là mốc son quan trọng khẳng định quyền tự chủ, vị thế của nước Nam sau hơn 1000 năm phải sống dưới trường đô hộ của phương Bắc.
Ông không chỉ được ghi vào trang sử hào hùng của dân tộc với tư cách một vị tướng tài, mưu lược mà bởi vai trò là người mở nước, xưng vương tạo đà cho sự độc lập, lâu dài của đất nước. Nhà sử học Lê Văn Hưu đã nhận định về công trạng của ông cũng như vai trò của trận chiến Bạch Đằng như sau :“ Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy”.
Sau khi chấm dứt hơn 1000 Bắc thuộc và trận chiến làm quân xâm lược phải bạt vía, ông bắt tay vào xây dựng giang sơn, xã tắc. Ông xưng Vương, dân gian còn gọi là Ngô Vương, bãi bỏ chức tiết độ sứ và lựa chọn vùng đất Cổ Loa làm kinh đô. Ông cũng đặt ra nhiều chức quan văn võ và các nghi lễ trong triều và mở ra thời đại trị vì theo chế độ quân chủ. Nhưng tiếc thay, thời gian Ngô Quyền lên ngôi và cai quản đất nước rất ngắn, ngủi chỉ 6 năm, kéo dài từ năm 939 đến 944. Ông mất vào tháng giêng năm Giáp Thìn, khi chỉ tròn 47 tuổi.
Để tưởng nhớ công lao của Ngô Quyền, nhân dân đã xây dựng lăng và đền thờ cho ông trên mảnh đất Đường Lâm. Ngày nay, đây chính là một trong những di tích lịch sử hút sự quan tâm của giới người yêu sử.
Trên đây chính là toàn bộ những thông tin thú vị xoay quanh tiểu sử Ngô Quyền - vị vua đầu tiên của nhà Ngô cũng như chiến công hiển hách Bạch Đằng chấm dứt lịch sử hơn 1000 năm Bắc Thuộc. Mong rằng, những thông tin này sẽ thực sự hữu ích với tất cả các bạn.
Tổng hợp: SGT Group