Được tin cha bị vua Giản Định Đế giết oan (1409), Nguyễn Cảnh Dị đã cùng với Đặng Dung (tạm gác lại mối thù của cha) kéo quân từ Thuận Hóa ra Thanh Hóa nhằm diệt trừ bọn gian thần, phản loạn, bọn ngụy Minh... trong Triều đình Trần Ngỗi và rước Trần Quý Khoáng (cháu Trần Ngỗi) vào Hoan Châu tôn làm Vua.
Ngày 17 tháng 03 năm Kỷ sửu (1409) ở Chi La (nay thuộc huyện Đức Thọ – Hà Tĩnh) Trần Quý Khoáng chính thức lên ngôi Vua, đổi niên hiệu là Trùng Quang. Nhà Vua phong Nguyễn Cảnh Dị chức “Thái Bảo”, Đặng Dung chức “Đồng bình Chương sự”, Nguyễn Súy chức “Thái phó”, Nguyễn Chương chức “Tư Mã” để thống lĩnh ba quân tướng sĩ.
Do bối cảnh và nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy chỉ huy đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên (Nam Định) đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng hoàng. Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng Cảnh Dị và Đặng Dung vì sự nghiệp chung của đất nước, hai ông đã vượt lên tất cả, trước sau vẫn giữ khí tiết, phẩm hạnh của một vị tướng.
Năm Nhâm Thìn (1412), Nhà Minh tiếp tục kéo quân sang xâm lược nước ta do Trương Phụ chỉ huy, tiến quân các hướng vào Quảng Ninh, Hải Hưng, Hải Dương... Tướng quân Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Súy đã thống lĩnh đại quân đánh tan quân nhà Minh ở Hòn Gai giành đại thắng.
Bị thất bại thảm hại, năm Quý Tỵ (1413) Trương Phụ phải xin cầu viện, bổ sung thêm quân và binh khí tiến quân đánh khắp nơi, sát hại cướp bóc dã man dân lành. Trong trận chiến quyết liệt ở Ái Tử, quân nhà Trần quá ít, bọn giặc Minh quá đông đã vây hãm quân nhà Trần trong nhiều ngày. Trương Phụ đã bắt được Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung. Chúng dùng mọi cực hình và mua chuộc, với khí tiết anh hùng Nguyễn Cảnh Dị đã liên tục chửi mắng vào mặt Trương Phụ: “Ta định giết mày, nào ngờ mày lại bắt được ta”, chửi Trương Phụ không ngớt lời, Trương Phụ giết chết Nguyễn Cảnh Dị (mổ bụng ăn gan) để hả lòng hả dạ vì sự thất bại thảm hại ở trận Bô Cô và trận thủy chiến ở Hòn Gai, Nguyễn Cảnh Dị đã hy sinh vào trung tuần tháng 12 năm Quý Tỵ (1413).
Sau khi ông nội (Nguyễn Cảnh Chân) và cha (Nguyễn Cảnh Dị) bị sát hại (1409 và 1413), hai người con của Đại tướng quân Nguyễn Cảnh Dị là Nguyễn Tuấn Thiện sinh năm Tân Tỵ (1401) và Nguyễn Tuấn Kiệt đã cùng mẹ chạy về trú ẩn tại làng Phúc Sơn, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Cha con Nguyễn Cảnh Lữ và Nguyễn Cảnh Luật cũng chạy qua đất Hương Sơn lánh nạn cùng với anh em họ hàng tại đây. Lúc bấy giờ giặc Minh, ngụy Minh nổi lên khắp nơi, nạn trộm cướp hoành hành, Nguyễn Tuấn Thiện vận động trai tráng trong làng thành lập đội quân Cốc Sơn để giúp bảo vệ dân làng và tiếp tục chống quân Minh. Kể từ khi ra đời, đội quân Cốc Sơn hoàn toàn làm chủ vùng Hương Sơn- Hà Tĩnh, nhân dân có cuộc sống tương đối yên lành, uy tín và tiếng tăm của thủ lĩnh Nguyễn Tuấn Thiện ngày càng tăng cao.
Kế tục sự nghiệp kháng chiến chống quân Minh của các bậc tiền bối, Lê Lợi đã hiệu triệu chiêu tập binh sỹ, thu nạp các anh hùng, lão tướng, chế tạo binh khí, tích trữ lương thảo chuẩn bị trong nhiều năm. Năm Mậu Tuất (1418) Lê Lợi chính thức dấy binh khởi nghĩa Lam Sơn, giai đoạn đầu (từ 1418 đến 1424) lực lượng mỏng yếu gặp rất nhiều khó khăn, quân Minh lại mạnh, nên hầu như thất bại trong các trận giao tranh lớn, chỉ thắng các trận đánh nhỏ.
Năm Ất Tỵ (1425) sau khi nghe lời khuyên của các công thần, Lê Lợi dẫn quân về đất Hương Sơn gặp Nguyễn Tuấn Thiện và thu nạp đội quân Cốc Sơn, cắt tóc kết nghĩa, giết ngựa trắng ăn thề dưới gốc cây thị ở xóm Nậy (thuộc xã Sơn Phúc) nguyện một lòng giết giặc cứu nước. Kể từ đó về sau, anh em Nguyễn Tuấn Thiện trở thành tướng giỏi dưới triều vua Lê Thái Tổ, được vua Lê ban quốc tính “Lê Thiện”. Người dân địa phương ở nơi đây vẫn lưu truyền những câu thơ: “Cắt tóc giết ngựa trắng - Dưới gốc thị thề nguyền - Nguyện đồng tâm đồng chí - Phá giặc xây cơ đồ”. Lịch sử chỉ lưu danh Nguyễn Tuấn Thiện (Lê Thiện) còn gia đình anh em, chú bác không chép, gia phổ thất truyền, phần mộ và đền thờ ông tại Hương Sơn – Hà Tĩnh được Nhà nước cấp chứng nhận Di tích Lịch sử Quốc gia năm 1991.
Năm Mậu Thân (1428), sau khi đánh xong giặc Minh, Lê Lợi chính thức lên ngôi vua (tức vua Lê Thái Tổ), đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) Vua Lê Thái Tổ đã truy phong cho hai danh thần Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất biển vàng tám chữ “Tiết liệt cương trung – Trung thần hiếu tử”; phong Nguyễn Cảnh Chân chức “Tổng Tham mưu quân sự”, Đặng Tất chức “Đại quốc công”, Thái Bảo Nguyễn Cảnh Dị chức “Thụy Quốc Công”, còn Đặng Dung chức “Đồng bình Chương sự” nhằm ghi nhớ công lao to lớn của các ông.
Đến triều vua Lê Thánh Tông (1442-1497) ban chiếu truy tặng Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân câu cảo "Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ - Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng".
Vua Tự Đức triều Nguyễn (1829-1883) vịnh câu thơ trên, đồng thời truy tặng Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bài thơ:
“Là bề tôi trung nghĩa triều Trần,
Thù cha chưa trả nợ nước còn.
Sách lược công danh chưa vẹn tròn,
Tấm lòng trung nghĩa vầng dương mộc,
Hỡi lũ giặc kia nhớ lời nguyền".
Sau khi Lê Lợi bình định xong giặc Minh (1428), các vùng từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa cơ bản được giải phóng, cha con Nguyễn Cảnh Lữ mới quay về làng Ngọc Sơn (đất cha) sau nhiều năm lánh nạn trên đất Hương Sơn – Hà Tĩnh (khoảng 14 năm từ 1414 đến 1428).
Năm Canh Tuất (1430) nhân dịp vua Lê Thái Tổ hạ chiếu truyền đi các lộ, phủ, huyện...làm hộ tịch cho dân, cha con Nguyễn Cảnh Lữ chính thức khai khẩu nhập tịch vào làng Ngọc Sơn – huyện Nam Đường – xứ Hoan Châu lấy tên là “Nguyễn Lữ” và “Nguyễn Luật”. Hai cha con ông tiếp tục hành nghề chèo đò, châm cứu và bốc thuốc chữa bệnh tại đây. Nguyễn Cảnh Lữ mất không lưu truyền được ngày-tháng-năm và nơi an táng huyệt mộ. Riêng Nguyễn Cảnh Luật trên đường đi châm cứu chữa bệnh bị hổ vồ chết bất đắc kỳ tử, nhưng không ăn thịt mà bới đất táng ông tại eo Chó Đẻ (phần Mộ thuộc làng Ngọc Sơn – Thanh Chương). Các ông là tiên tổ dòng họ Nguyễn Cảnh trên đất Thanh Chương - Nghệ An.
Đại tướng Anh hùng dân tộc Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cảnh Dị là bậc Công thần khai quốc thời hậu Trần đã tiếp nối truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của các thế hệ cha anh, có đóng góp to lớn trong lịch sử dân tộc. Ông là Thủy tổ dòng tộc họ Nguyễn Cảnh trên đất Nghệ An. Về sau, con cháu hậu duệ của ông đã nối nghiệp nhà binh từ các bậc tiên liệt, có nhiều người nổi danh được các triều đại nhà Hậu Lê và Lê Trung Hưng tôn vinh: Gồm 18 Quận Công, 76 tước Hầu, nhiều tước bá và tước hiệu, tiêu biểu cho bốn lớp trung cần, năm đời nhân nghĩa có: Phúc Khánh Quận công Nguyễn Cảnh Huy và con cháu của ông như: Phấn Võ hầu Nguyễn Cảnh Noãn; Binh bộ Thượng thư Thái phó Tấn Quốc công Nguyễn Cảnh Hoan; Trung Quận công Nguyễn Cảnh Chân; Cường Quận công Nguyễn Cảnh Vạn; Lập Quận công Nguyễn Cảnh Chiêu; Thái bảo Tả tư không Thư Quận công Nguyễn Cảnh Kiên; Tả tư mã Thắng Quận công Nguyễn Cảnh Hà; Tả Đô đốc Liêu Quận công Nguyễn Cảnh Quế... Dòng họ của ông nổi tiếng trâm anh, danh gia vọng tộc, xứng đáng với lời vịnh lưu truyền ”Cao tiền tổ khảo dị lai, Thập bát Quận Công tam Tể tướng – Đinh Lý Trần Lê dị hậu, Bách dư Tiến sỹ thất khôi nguyên”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh có các ông: Nguyễn Cảnh Dinh, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Nguyễn Cảnh Toàn - Giáo sư Toán học, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo; Nguyễn Song Tùng - nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động; Thiếu tướng Nguyễn Cảnh Hiền, nguyên phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam…
Để ghi nhớ công lao to lớn của hai danh tướng Anh hùng dân tộc Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cảnh Dị, hầu hết các thành phố trong cả nước đều có đường phố mang tên các ông. Đặc biệt gần Quảng trường Ba Đình - Hà Nội có phố Nguyễn Cảnh Chân từ thời Pháp thuộc, phố Nguyễn Cảnh Dị tại Khu đô thị Đại Kim – Quận Hoàng Mai - Hà Nội. Trên chính quê hương ông đều có tên đường và Trường THPT Nguyễn Cảnh Chân./.
Baonghean.vn