Hưởng ứng các hoạt động hướng tới Kỷ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh Danh nhân văn hóa Thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du. Trang tin Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh xin gửi tới bạn đọc thông tin về "Thân thế, sự nghiệp văn chương và tác phẩm tiêu biểu nhất của Đại thi hào Nguyễn Du".
I. THÂN THẾ NGUYỄN DU
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông. Nơi sinh là phường Bích Câu, thành Thăng Long (Hà Nội). Lúc bấy giờ, cha là Nguyễn Nghiễm đang làm tể tướng. Bốn năm trước, người anh cùng mẹ Nguyễn Nễ cũng sinh tại đây. Mẹ đẻ của Nguyễn Du là Trần Thị Tần vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm. Bà là con gái thứ ba của một vị quan nhỏ coi việc sổ sách kế toán (chức Câu Kê) dưới trướng Nguyễn Nghiễm, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn). Bà Trần Thị Tần sinh năm Canh Thân (1740) và mất ngày mùng 6 tháng 7 năm Mậu Tuất (1778) thọ 39 tuổi. Năm đó Nguyễn Du mới 13 tuổi. Bà Trần Thị Tần thuộc dòng dõi Trần Phi Chiêu (1549 – 1623), ông đậu tiến sỹ năm Kỷ Sửu (1589) làm quan đến chức thượng thư bộ Hộ, kiêm Đô Ngự Sử, tước Diên Quận công. Bà là một phụ nữ nết na, thông minh, và xinh đẹp, lại sinh ra tại xứ Kinh Bắc vùng quê quan họ. Điều đó ảnh hưởng tốt đến hồn thơ Nguyễn Du từ những ngày còn bé.Tượng Nguyễn Du (Nguồn: sưu tầm)
Theo tộc gia phả của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, lên 3 tuổi, Nguyễn Du được tập ấm là Hoàng Tín Đại phu, xuất thân là Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc bá. Với cái hàm ấy, Nguyễn Du đã đứng trong hàng sĩ tịch của triều đình nhà Lê, mặc dù chưa phải là một vị quan tại chức. Nguyễn Du tướng mạo khôi ngô. Lên 6 tuổi bắt đầu đi học chữ Hán, sách vở chỉ cần xem qua một lần là nhớ. Có lần Viện Quận công Hoàng Ngũ Phúc đến dinh thự nhà Nguyễn Nghiễm ở phường Bích Câu chơi. Trông thấy Nguyễn Du có tướng mạo phi thường, lấy làm quý mến bèn tặng ông một thanh Bảo Kiếm.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi chức tể tướng, về trí sĩ ở quê nhà, Nguyễn Du theo cha về quê. Tại bến Giang Đình, ông được chứng kiến cảnh vinh hoa của gia đình mình (sau này ông có nhắc lại trong bài thơ Giang Đình hữu cảm). Năm Bính Thân (1776) Nguyễn Nghiễm mất, lúc đó Nguyễn Du mới lên 11 tuổi. Trong hơn 10 năm ấy, Nguyễn Du sống bên cạnh cha không nhiều. Năm 1778, bà Trần Thị Tần lâm bệnh rồi mất. Nguyễn Du mồ côi cha mẹ.
Nguyễn Nghiễm có 8 bà vợ, ngoài hai bà ở quê là Đặng Thị Dương (mẹ đẻ Nguyễn Khản) và Đặng Thị Tuyết (mẹ đẻ Nguyễn Điều). Các bà còn lại đều quê ở ngoài Bắc. Bà Trần Thị Tần ít hơn Nguyễn Nghiễm 32 tuổi, các bà khác còn trẻ hơn.
Cha mẹ mất, Nguyễn Du về sống với gia đình quan tể tướng tại Tiên Điền. Thủa ấy, dinh cư nhà Nguyễn Nghiễm rất nguy nga, đồ sộ. Người dân Nghi Xuân hồi đó làm thơ tả cảnh nhà ông như sau:
Trèo lên Hồng Lĩnh mà trông
Nhìn về đã thấy dinh ông rõ ràng
Lâu đài dãy dọc tòa ngang
Ông ngồi đọc sách nghiêm trang một mình
Nhìn về đã thấy dinh ông rõ ràng
Lâu đài dãy dọc tòa ngang
Ông ngồi đọc sách nghiêm trang một mình
Thời gian này Nguyễn Du bước vào tuổi trưởng thành, việc ăn học đòi hỏi ngày một nhiều. Sau khi Nguyễn Nghiễm mất, gia cảnh không còn phong lưu như trước. Đời sống cùng việc học hành của Nguyễn Du không được như khi còn cha mẹ. Tuy vậy với địa vị và danh tiếng của gia tộc, Nguyễn Du vẫn là cậu Chiêu bảy được mọi người ngưỡng mộ. Quãng thời gian này, ngoài việc học hành, những khi rỗi rãi, lễ tết, Nguyễn Du thường cùng với bạn trai phường hát Tiên Điền vượt truông Hống đò Cài vào Trường Lưu hát ví và xướng họa thơ phú. Qua những lần đi hát, Nguyễn Du thực sự có cảm tình với o Uy, o Sạ. Đã có lần do mối thâm tình này mà gây ra bất hòa với trai Trường Lưu. Những năm sau này (sau 1786), khi từ Thái Bình về sống tại quê nhà, trở lại Trường Lưu gặp lại người xưa, gặp lại cảm xúc thời trai trẻ, Nguyễn Du đã viết bài Văn tế Trường Lưu Nhị Nữ nổi tiếng.
Mộ Cụ Nguyễn Du (Nguồn: Du lịch Việt)
Đất Trường Lưu ngoài hát phường vải có tiếng còn là chỗ thông gia với họ Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa Tiên là con rể Nguyễn Khản (Lấy Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Thái). Nguyễn Thiện cháu Nguyễn Du là người nhuận sắc cuốn Truyện Hoa Tiên. Vì thế, Trường Lưu là nơi đi lại rất đỗi thân tình của Nguyễn Du. Năm Quý Mão (1783), 19 tuổi, Nguyễn Du ra Sơn Nam ( Nam Định) dự kỳ thi Hương và đậu Tam Trường (Tú tài). Cùng năm này, anh là Nguyễn Nễ (con bà Trần Thị Tần) em là Nguyễn Nhưng (con bà Hồ Thị Ngạn), cháu là Nguyễn Thiện (con Nguyễn Điều) thi đậu Tứ Trường (Cử nhân) ở trường Phụng Thiên.
Sau sự kiện Kiêu binh nổi loạn (1872), dinh thự Nguyễn Khản tại phường Bích Câu bị đốt cháy. Hoàn cảnh khó khăn, Nguyễn Khản đành xin cho Nguyễn Du làm chức Chánh Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên vào năm 1786. Cũng trong năm này, Nguyễn Du cưới bà Đoàn Thị Huệ con gái Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân (1752) đang giữ chức Ngự Sử tại triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình).
Năm Đinh Mùi (1787), Tây Sơn tiến quân ra Bắc lấy Bắc Hà. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Du chạy theo vua xong không kịp, phải chạy về trốn ở quê vợ tại Thái Bình (ở nhờ nhà anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn). Ông tập hợp hào mục để tính chuyện phục quốc nhưng chí không thành.
Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu quê vợ là những năm tháng cô đơn cùng cực của Nguyễn Du, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng thời gian này là “Mười năm gió bụi” (Thập tải phong trần). Thường ngày ông làm thơ than thở cho cảnh ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì đã rơi vào cảnh cùng khổ.
Điều này khiến ông suy nghĩ nhiều về cuộc đời và thảm cảnh mà gia đình ông phải gánh chịu. Cho nên mới 30 tuổi mà tóc đã bạc trắng, ông đã giải bày nỗi niềm của mình trong bài U cư:
…Mười năm trọn quê người nấn ná
Nương quê người tóc đã điểm sương
Những năm này, gia cảnh nhà vợ chẳng có gì khá giả. Đoàn Nguyễn Thục đã mất, con trai lớn cũng mất, Nguyễn Du đành cõng người con trai còn lại là Nguyễn Tứ về quê cha đất tổ ở Tiên Điền. Trở lại quê, nhà cửa tan hoang, anh em lưu tán khắp nơi, ông đã phải thốt lên: “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (trở về Hồng Lĩnh gia đình không còn anh em lưu lạc khắp nơi).
Tuy vậy, ở Tiên Điền, lúc này bà con thân thuộc, con cháu thì nhiều. Nguyễn Du được bà con gia tộc chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và sống trong hoàn cảnh nhung lụa của một gia đình quý tộc nên về quê Nguyễn Du chẳng biết làm gì ngoài đống sách vở thánh hiền. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa, tiếng chuột chạy trên đống sách khiến ông càng thêm buồn. Để khuây khỏa Nguyễn Du thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu, nai, chồn, xạ hương…và xuống sông Lam bắt cá. Ông tự đặt cho mình biệt hiệu “ Hồng Sơn liệp hộ” (Phường săn núi hồng) và “ Nam Hải điếu đồ” (Nhà chài bể Nam).
Sống tại quê nhà nhưng lòng Nguyễn Du luôn nghĩ về những năm tháng vàng son của gia tộc mình, nghĩ về nhà Lê. Ông tỏ ý trong các câu thơ:
Hán mất nhất thời vô nghĩa sĩ
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân
(Buổi nhà Hán sắp mất không còn có người nghĩa sĩ
Lúc nhà Chu mới dậy vẫn còn dân ngoan cố)
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân
(Buổi nhà Hán sắp mất không còn có người nghĩa sĩ
Lúc nhà Chu mới dậy vẫn còn dân ngoan cố)
Hay:
Đàn đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất
Bá Di truy tử bất thần Chu
(Dẫu có bậc thánh nhân ta đời ở đất Kỳ Sơn
Nhưng ông Bá Di tuy đến chết cũng chẳng chịu làm quan cho nhà Chu)
Bá Di truy tử bất thần Chu
(Dẫu có bậc thánh nhân ta đời ở đất Kỳ Sơn
Nhưng ông Bá Di tuy đến chết cũng chẳng chịu làm quan cho nhà Chu)
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du toan trốn vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh. Việc bại lộ, tướng Tây Sơn là quận công Nguyễn Văn Thận bắt giam. May nhờ Nguyễn Văn Thận là bạn thân của anh ruột cùng mẹ là Nguyễn Nễ (hơn nữa cũng tiếc Nguyễn Du là người có tài) nên không nỡ giết, chỉ giam vài tháng rồi cho về. Trong bài My trung mạn hứng ông có ghi lại sự việc này:
Bốn bề gió bụi tình nhà việc nước mà rơi lệ
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái sống chết
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái sống chết
Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long ra Bắc Hà có xuống chiếu cho các quan chức cũ của nhà Lê phải ra yết kiến. Nhân dịp đó, Nguyễn Du được vua truyền lệnh theo xa giá ra Bắc Thành và được dùng làm quan. Tháng 8 năm ấy được bổ làm tri huyện Phù Dung (thuộc Khoái Châu, Sơn Nam). Tháng 11 bổ làm tri phủ Thường Tín.
Mùa đông năm Quý Hợi (1803) sứ nhà Thanh phong sắc cho vua Gia Long. Nguyễn Du được cử cùng Tri phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên; tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên và tri phủ Tiên Hưng là Trần Lân đi Trấn Nam Quan (Hữu Nghị quan ngày nay) nghênh tiếp sứ thần.
Mùa thu năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du lấy cớ bị bệnh xin từ chức về quê. Con đường làm quan với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với triều đại này.
Trong bài thơ Hỷ Thúc phụ Thường Tín giải quan quy Nguyễn Hành có ý khen chú mình là người có dũng khí:
Thanh bình hà sự cố từ quan.
Dũng thoái như kim ý sở an.
Liệt tước dĩ tàng thiên hạ đắc.
Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.
Dũng thoái như kim ý sở an.
Liệt tước dĩ tàng thiên hạ đắc.
Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.
Nghĩa là:
Đang buổi thanh bình cớ sao chú lại cáo quan mà về
Chú mạnh mẽ rút lui lúc này là do ý muốn
Chú đã có một chức tước trong thiên hạ.
Thì chú cần phải giữ trọn danh tiết cho nhà ta.
Chú mạnh mẽ rút lui lúc này là do ý muốn
Chú đã có một chức tước trong thiên hạ.
Thì chú cần phải giữ trọn danh tiết cho nhà ta.
Về quê chưa được bao lâu thì vua Gia Long có chỉ gọi ông vào Kinh Đô. Mùa xuân năm Ất Sửu (1805) được thăng Đông Các đại học sĩ, tước Du Đức hầu. Đây là một ân sủng lớn mà triều đình giành cho Nguyễn Du. Bởi Nguyễn Du chỉ đỗ Tam Trường (Tú tài) mà thời đó phải đỗ Hương cống (Cử nhân) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ triều đình nhà Nguyễn phong đặc cách cho Nguyễn Du như vậy vì: trước hết Nguyễn Du là một người có tài, hơn nữa ông lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng lỗi lạc, một thời gian dài là dường cột của triều đình nhà Lê. Trọng dụng những người như Nguyễn Du có thể tranh thủ được sĩ phu Bắc Hà.
Tuy ra làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Nguyễn Du chẳng lấy làm vui mà lại thêm buồn. Buồn vì thời thế đã thay đổi, lại buồn cho thân phận mình. “Nghĩ mình phận chẳng ra gì”. Những đêm mưa rả rích ở xứ Huế, một mình nhìn về phía Bắc Đào Ngang lòng càng thêm đau xót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách:
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc
(Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang)
(Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang)
Tháng 9 năm Đinh Mão (1807), được bổ chức giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Xong việc, ông xin nghỉ về quê, được vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tỵ (1809) vua lại có chỉ bổ ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình.
Ông lại buồn thêm cho cảnh cá chậu chim lồng của mình. Lòng luôn hướng núi Hồng, nhớ những buổi đi săn nai, săn hươu, càng muốn được sống cảnh thanh nhàn nơi rừng núi. Vì thế, trong mười chín năm làm quan cho triều Nguyễn, ông sống âm thầm, lặng lẽ, không tấu trình điều gì, chỉ có vâng dạ. Đến nỗi vua Gia Long đã trách cứ Nguyễn Du: “Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng không phân biệt gì Nam với Bắc cả. Nhà người đã làm quan đến chức á Khanh, biết việc gì phải nói để tỏ cái chức trách của mình, có lễ đâu cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng, dạ dạ hay sao?” (Đại Nam chính biên liệt truyện)
Những năm làm Cai Bạ tỉnh Quảng Bình, phàm những việc trong hạt như: lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Nguyễn Du giữ chức Cai Bạ 4 năm, chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được sỹ phu và nhân dân yêu mến. Năm 1811, nghe tin trấn Nghệ An bị hạn hán mất mùa, dân đói kém, ông viết thư gửi Hiệp Trấn Nghệ An Ngô Nhân Tĩnh xin miễn thuế cho dân Nghệ An năm đó và làm thơ cảm tạ:
Ông lại buồn thêm cho cảnh cá chậu chim lồng của mình. Lòng luôn hướng núi Hồng, nhớ những buổi đi săn nai, săn hươu, càng muốn được sống cảnh thanh nhàn nơi rừng núi. Vì thế, trong mười chín năm làm quan cho triều Nguyễn, ông sống âm thầm, lặng lẽ, không tấu trình điều gì, chỉ có vâng dạ. Đến nỗi vua Gia Long đã trách cứ Nguyễn Du: “Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng không phân biệt gì Nam với Bắc cả. Nhà người đã làm quan đến chức á Khanh, biết việc gì phải nói để tỏ cái chức trách của mình, có lễ đâu cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng, dạ dạ hay sao?” (Đại Nam chính biên liệt truyện)
Những năm làm Cai Bạ tỉnh Quảng Bình, phàm những việc trong hạt như: lính tráng, dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Nguyễn Du giữ chức Cai Bạ 4 năm, chính sự giản dị không cần tiếng tăm nên được sỹ phu và nhân dân yêu mến. Năm 1811, nghe tin trấn Nghệ An bị hạn hán mất mùa, dân đói kém, ông viết thư gửi Hiệp Trấn Nghệ An Ngô Nhân Tĩnh xin miễn thuế cho dân Nghệ An năm đó và làm thơ cảm tạ:
…Xa nhìn Hồng Lĩnh ngôi sao đức
Nâng chén mừng quê khách dặm ngàn
Nâng chén mừng quê khách dặm ngàn
Cùng năm đó, xảy ra vụ án Đặng Trần Thương, Nguyễn Gia Cát và Vũ Quý Đình làm 500 đạo sắc giả bán lấy tiền, càng làm cho Nguyễn Du thêm chán cảnh quan trường, nơi đầy rẫy những kẻ xu thời trục lợi, chỉ thích vơ vét tiền bạc. Đến tháng 9 năm Nhâm Thân (1812) ông xin tạm nghỉ hai tháng về quê xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ.
Tháng hai năm Quý Dậu (1813) có chỉ triệu ông về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại học sĩ, rồi cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Hai phó sứ giúp việc là Thiêm Sự Bộ Lại Trần Văn Đại và Nguyễn Văn Phong.
Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du lại có dịp trở lại Thăng Long. Bạn bè ở Thăng Long mở tiệc đưa tiễn ở dinh Tuyên phủ, có gọi mấy chục nữ nhạc đến giúp vui. Trong đám nữ nhạc ông nhận ra một người mà 20 năm trước, khi ông từ Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Nễ đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Bây giờ dung nhan tiều tụy, ông chạnh lòng nghĩ đến việc thế sự đổi thay, buồn bã thốt lên: “Than ôi! Sao người ấy đến nỗi thế? Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa nay”. Lòng cảm thương vô hạn, ông đã gửi vào bài thơ Long thành cầm giả ca.
Ông còn đau lòng hơn khi đi qua dinh thự nhà mình tại phường Bích Câu. Nhà cũ không còn, Cung vua, phủ chúa đã thành đường cái quan. Những cô gái quen đã đi lấy chồng, những bạn trai chơi thân ngày trước thì nên ông, nên lão. Chứng kiến cảnh cũ, ông thương tiếc, đau xót cho sự biến đổi của cuộc đời.
Ngày 6 tháng 2 năm 1813, đoàn sứ bộ qua ải Nam Quan, đến ngày 4 tháng 10 thì đến Bắc Kinh. Trong thời gian đi sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi đi qua đền chùa, các danh thắng nổi tiếng của Trung Quốc, Nguyễn Du thường ghé thăm và làm thơ. Ông ca ngợi Hạng Vũ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can… qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tự tử, Nguyễn Du làm bài thơ Phản chiêu hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về dương gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, ông chê trách Tần Cối nghe vợ giết trung thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc bạc mệnh, Nguyễn Du làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không)
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không)
Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) Nguyễn Du trở về nước và có tập thơ Bắc hành tạp lục. Mùa hạ năm Ất Hợi (1815) Nguyễn Du được phong chức Hữu Tam Tri Bộ Lễ, tước Du Đức hầu (do đó người xưa thường gọi ông là Quan Tham Thúy Kiều)
Thành Thăng Long qua tranh vẽ (Nguồn: sưu tầm)
Mùa thu năm Kỷ Mão (1819) Nguyễn Du được cử làm Đề Điệu trường thi Quảng Nam, ông dâng biểu xin nghỉ được nhà vua chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn (1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, có lệnh sai Nguyễn Du đi làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng ông chưa kịp đo thì mất tại Kinh thành Huế vào ngà 10 tháng 8 niên hiệu Minh Mạng năm đầu (dương lịch 16/9/1820) hưởng thọ 55 tuổi. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Khi bệnh nặng không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân, nói đã lạnh rồi, ông bảo tốt, nói xong rồi mất không trăn trối lại điều gì về sau”. Nguyễn Du chết do dịch tả, trận dịch này bắt đầu từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta. Sử nhà Nguyễn chép: “Vào khoảng tháng 7, tháng 8, bệnh dịch phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lây lan ra khắp nước đến tận Bắc Thành, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Thành thị thôn quê đều náo động”
Nguyễn Hành bấy giờ đang ở Bắc Thành được tin chú mất, làm thơ Văn Thúc phụ Lễ Tham Tri phó âm cảm tác có câu thơ như sau:
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
(Phú dày nhà ta chú đã giữ trọn vẹn
(Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh như thế)
Sự nghiệp văn chương của đã để lại cho hậu thế gồm:
-Về chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập; Nam Trung Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Lê Quý kỷ sự.
-Về Quốc Ngữ (chữ Nôm): Văn tế Thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn); Văn Tế Trường Lưu nhị nữ. Và vĩ đại nhất là tập Đoạn trường Tân Thanh mà nhân dân ta thường gọi là Truyện Kiều
-Về chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập; Nam Trung Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Lê Quý kỷ sự.
-Về Quốc Ngữ (chữ Nôm): Văn tế Thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn); Văn Tế Trường Lưu nhị nữ. Và vĩ đại nhất là tập Đoạn trường Tân Thanh mà nhân dân ta thường gọi là Truyện Kiều
II. SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN DU
Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (xem: Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.).
Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ. Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của một bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.
Thanh Hiên thi tập còn gọi là Thanh Hiền tiền hậu tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804, gồm 10 năm gió bụi, ông sống ở Thái Bình quê vợ, 6 năm trở lại nhà dưới chân núi Hồng, và 2 năm làm chi huyện ở huyện Bắc Hà. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), còn có tên gọi khác là Văn chiêu hồn, Văn tế chiêu hồn. Tác phẩm hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ. Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của một bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.
1. Tác phẩm bằng chữ Hán:
Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:Thanh Hiên thi tập còn gọi là Thanh Hiền tiền hậu tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804, gồm 10 năm gió bụi, ông sống ở Thái Bình quê vợ, 6 năm trở lại nhà dưới chân núi Hồng, và 2 năm làm chi huyện ở huyện Bắc Hà. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
2 . Tác phẩm bằng chữ Nôm:
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), còn có tên gọi khác là Văn chiêu hồn, Văn tế chiêu hồn. Tác phẩm hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
Nguồn bvdkht.vn