276 lượt xem

Những điều bí ẩn về Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm - người khiến thực dân Pháp e sợ

Theo Giáo sư Nguyễn Thế Anh, sử gia người Việt, giáo sư đại học Paris-Sorbonne (Pháp) thì văn khố “Public Record Office” tại London (Vương quốc Anh) hiện còn lưu trữ một bức thư bằng chữ Hán với nội dung khá thú vị về Kỳ Đồng - một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.

Lá thư gửi Chính phủ Anh

"Chúng tôi là Nguyễn Song Sơn là dân các tỉnh của nước Việt Nam, gởi thư tâu lên Hoàng đế bệ hạ và các vị quan lớn văn võ của chính phủ nước Anh tại thành Luân Đôn cùng thu nhận soi xét.

Việt Nam từ khi lập quốc đến nay đã hơn 4.000 năm. Đến năm Đinh Tỵ Tự Đức (niên hiệu của vua Việt Nam) thứ 10 (tức năm 1858 - NV), thời có nước Pháp và nước Tây Ban Nha đã đem binh thuyền đến núi Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam nước Việt, đưa thư đòi hỏi ba việc: Một là truyền giáo, hai là thông thương, ba là lập cửa khẩu mua bán ở Sơn Trà. Các vị quan lớn Việt Nam không biết kế sách ngoại giao, đã kiên quyết chống lại lời thỉnh cầu này, lại đem binh ngu ngơ yếu kém phòng ngự.

Hai năm sau, hai nước này bèn gây chiến ở tỉnh Gia Định, rồi gửi thư xin lập phố thông thương. Chính phủ lại kiên quyết khước từ. Hai nước lại gây chiến với nước Đại Thanh, chỉ để lại đội binh thuyền nhỏ cầm cự quân Việt. Đến năm thứ 14 lại kéo binh về tấn công thành Gia Định.

Rồi phúc thư giảng hòa, đòi cắt ba tỉnh Gia Định, Bình Định (có lẽ nhầm lẫn với Biên Hòa – NV), Định Tường cho Pháp, và bồi thường tiền quân phí cho Tây Ban Nha 100 vạn. Lúc đó vua tầm thường, bề tôi ngu muội, chính phủ không thể nắm vững lý mà đem sức tranh biện, đành phải sai sứ hẹn ước giao nạp tiền và cắt đất.

Năm sau, người Pháp lại lợi dụng sự ngu muội yếu hèn ấy, chiếm lấy chủ quyền và quyền lợi ở Lục tỉnh. Đến năm Tự Đức thứ 25 Nhâm Thân (tức 1874 – NV) lại đòi hỏi thông đường sang tỉnh Vân Nam nước Đại Thanh không được, bèn phát binh đánh các tỉnh Bắc Kỳ. Rồi lại ký hòa ước. Trong hòa ước đã nhường khống chủ quyền nước Việt từ Trung Kỳ cho đến Bắc Kỳ, đặt Khâm sứ ở kinh thành (Trung Kỳ) và lãnh sự ở Hà Nội, Hải Phòng. Ký hòa ước xong (Pháp) đã giao trả Bắc Kỳ.

Vào 10 năm sau, người Pháp lại phát binh đánh các tỉnh Trung Kỳ. Các nơi khác ở Bắc Kỳ cũng trở thành chiến trường. Lúc đó vua Hiệp Hòa ở Việt Nam, tuổi nhỏ làm giám quốc (năm Quý Mùi - 1883) người Pháp lại bắt ép ký hòa ước gồm 24 khoản.

Khoản 1 là: Nước Việt nhờ nước Pháp bảo hộ. Chính phủ bất đắc dĩ phải ký văn bản hòa ước như yêu cầu đó. Hòa ước ký xong, Pháp lại cử binh đánh chiếm Phúc Châu của Đại Thanh, rồi ký hòa ước Thiên Tân. Người Pháp đòi hòi người Thanh phải thừa nhận điều 1 là Pháp bảo hộ Việt Nam.

Đến năm Ất Dậu (1885) vua Hàm Nghi làm giám quốc. Người Pháp phát quân thủy, quân bộ công hãm kinh thành tại Trung Kỳ. Vua Hàm Nghi rời thành bị quan quân Pháp bắt, đem giam tại Ba Lê là kinh đô của nước Pháp. Nay lại đem sang an trí ở Algérie. Pháp lại giao trả Kinh thành, chọn con cháu tầm thường ngu muội của họ Nguyễn (thuộc họ nhà vua) đề chính vương danh, lại đặt các quan nô lệ để sung sai phái, bắt ép cắt nhường Bắc Kỳ.

Từ đó chủ quyền và quyền lợi lục tỉnh Nam Kỳ và toàn hạt Bắc Kỳ đều về người Pháp. Lúc đó thế của các nghĩa đảng không thể chống cự được, hoặc mang lòng trung xuống hoàng tuyền, hoặc gởi thân nơi đất khách. Trong mắt của người Pháp không còn người Việt nữa, bèn hạ lệnh thu thuế đinh điền thổ trạch, quan ải, cửa biển, cây rừng, mỏ núi, chợ đò xe thuyền, muối, lợn, dâu tằm, chăn nuôi...

Xét từ thuở đầu, Pháp đã mượn tiếng thông thương để dòm ngó hư thực, đã ngụy định hòa ước mà thao túng. Lại xét về sau, tiếng là bảo hộ cho nước Việt suy yếu, thật ra là bòn rút máu mỡ dân Việt. Thử xem các nước trong năm châu, có tình cảnh này chăng?

Việc bảo hộ của các cường quốc là xem người dân thuộc địa như anh em làm cho dân trí ngày một mở mang, việc nông thương ngày một mở rộng, dân số ngày càng nhiều, của cái ngày càng lắm. Thế mà sự bảo hộ của người Pháp lại xem người Việt như lợn gà, dao thớt ở trước mà xanh chảo ở sau vậy".

Người được "thiên hạ theo về, hào kiệt tin yêu"

Vẫn bức thư trên: "Ở làng Ngọc Đình tỉnh Thái Bình có Nguyễn Văn Cẩm, 7 tuổi đã có khả năng hiểu biết trời cho, cả nước biết tên. Người Pháp nghi kỵ, bèn đem đi an trí, cuối cùng không thể làm hại được, đành cho vào trường học. Sau 3 năm đèn sách, đã tốt nghiệp phổ thông. Khắp các kỹ thuật sở trường cốt yếu các nước, không gì không rõ. Người Pháp nhiều lần muốn trọng dụng, nhưng ông vẫn bất khuất. Ở nước ngoài hơn 10 năm, đã tới phủ giám quốc xin trở về Việt Nam khai khẩn ruộng hoang. Được phép, trở về Việt Nam, ông đã lập đồn điền tại huyện Yên Thế cùng khai khẩn với một người Pháp.
 

Vừa mới 20 ngày, chưa kịp chiêu mộ, nhưng người Việt kéo tới không dưới 10 vạn. Quan Pháp thấy thiên hạ có lòng theo về, bậc hào kiệt tin yêu, đã đem lòng nghi kỵ lại chuyển ông đi an trí đã 12 năm rồi. Người Pháp như thế, làm cho người Việt không vui vẻ gì với việc mở mang ruộng đất.

Người ở thành phố thuộc tỉnh Nam Định là Trịnh Xuân Nham, vốn là người hiếu học. Hai người ở làng Hành Thiện cũng hâm mộ thương nhân, cũng xuất dương ra nước ngoài để thông thương và du học. Nhưng người Pháp đã cản trở, ra lệnh cho các quan cai trị quản chế, không cho ra khỏi nhà.

Người tỉnh Quảng Nam là Phan Châu Trinh soạn sách yêu nước, viết chuyện cũ về các nước tự do độc lập để giáo dục người. Thế mà Người Pháp đã vu khống, kết án là xui người làm loạn, lưu đày chung thân. Như thế thì người Việt ai dám bộc lộ tinh thần yêu nước...

Các quan Pháp bảo hộ chỉ mong nòi giống Việt ngày càng bị hãm vào cõi trầm luân chết chóc, cốt cho người Pháp càng năm càng thu được số bạc ức vạn triệu... Than ôi, than ôi, dân chúng tôi sinh ở nước Việt, làm người dân Việt, ở dưới sự bảo hộ của họ hơn 40 năm qua, lấy công sức làm ruộng, mua bán có hạn để lấp đầy cái hang ham muốn vô cùng. Cơ hồ như không còn cửa xin ăn, không đất chôn thân vậy...

Nay ngửa trông thương xót, cứu vớt dân Việt ở trong vòng nước sâu lửa nóng, xin trù liệu kế nào đề giúp cho Nguyễn Văn Cẩm được về nước, ngõ hầu người dân Việt được nhờ ơn bất hủ của nước nhà, ắt phải lo báo đáp bất hủ. Muôn vàn đội ơn. Ngày 15/4 năm Mậu Thân (1908)".

Địa chỉ nơi ở của nhân vật Nguyễn Văn Cẩm nhắc tới trong thư được viết bằng chữ Pháp trên tờ giấy nhỏ, bỏ vào bên trong phong thư.

Bức thư nêu trên tóm lược sự diễn tiến trong vòng nửa thế kỷ, từ khi liên quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, vào năm 1858, cho đến năm 1908, để kịch liệt công kích nền đô hộ mà người Pháp đặt trên nước Việt Nam, với những ví dụ tiêu biểu cho sự bóc lột bằng gánh nặng thuế má và sự phủ nhận các quyền tự do cản bản mà giới cai trị Pháp buộc dân Việt phải chấp nhận.

Tuy nhiên mục đích chính mà tác giả nhằm tới sự thật là lôi cuốn sự chú ý tới một nhân vật là Nguyễn Văn Cẩm. Tác giả đã không ngần ngại phô bày lòng kính phục của mình đối với nhân vật Nguyễn Văn Cẩm. Vậy Nguyễn Văn Cẩm là ai?

Thần đồng từ năm 7 tuổi

Sinh ra vào khoảng năm 1875 tại làng Ngọc Đình (xưa thuộc hạt Hưng Yên, sau nhập vào tỉnh Thái Bình), ngay từ năm lên 7 tuổi, Nguyễn Văn Cẩm đã được các quan tỉnh để ý đến vì "thông tuệ, thù ứng, thơ đối phần nhiều khác thường, ngôn ngữ cử chỉ có lễ độ".

Vào lúc mà trước tình hình cấp bách bởi áp lực bành trướng của người Pháp, chính sách của triều đình nhắm đến tìm kiếm và đào tạo anh tài, Nguyễn Văn Cẩm được chính phủ cấp cho mỗi tháng 3 quan tiền và 1 vuông gạo, kể từ năm Tự Đức thứ 35 (1882), để có phương tiện mà trau dồi kiến thức. Đối với dân chúng trong vùng, Cẩm được mệnh danh là Kỳ Đồng, vẫn thường được người lớn hỏi han về vận mệnh đất nước, vì được truyền tụng là có khả năng tiên đoán tương lai.

Cần phải đề cập qua đến tác giả bức thư trên. Nguyễn Song Sơn chỉ có thể là một biệt hiệu, không có một dấu hiệu nào để nhận diện một cách rõ rệt nhân vật này. Tuy nhiên, lời văn của ông, nếu không chứa đựng những kiểu cách văn điển của các nhà nho truyền thống, thì cũng là lời văn của một người có học. Một tài liệu của Phòng Nhì Phủ Toàn quyền cho biết rằng vị thư ký của Nguyễn Văn Cẩm, là một Tú tài có thể đó là tác giả của bức thư này.

Thỉnh nguyện thư của Nguyễn Song Sơn gửi đến Anh Hoàng đã không đưa lại một kết quả nào. Vào năm 1908, chính sách ngoại giao giữa Anh và Pháp là chính sách thân thiện mệnh danh là chính sách "Entente Cordiale". Trong hoàn cảnh này, bức thư của Nguyễn Song Sơn tất nhiên đã được xếp vào trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao Anh mà không được ai đoái hoài đến.

Ngoài ra, người ta cũng tin rằng Kỳ Đồng được thần linh phó cho tài chữa bệnh, uy tín của Kỳ Đồng lan rộng trong vùng châu thổ sông Hồng.

Khi mà phong trào kháng chiến chống lại sự chiếm đóng xứ Bắc Kỳ bởi quân Pháp lan rộng, một vài nhà lãnh tụ đã để Kỳ Đồng làm người cầm cờ cho phong trào quốc gia, có thể lôi cuốn được nhiều người ủng hộ.

Những cuộc vận động mà Kỳ Đồng đứng ra vào năm 1887 có nhiều tình tiết thú vị: Ông mộ thiếu niên dựng cờ "Thiên binh thần tướng" để chiếm thành Nam Định.

Lẽ tất nhiên là chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của lính giữ thành đã đủ để giải tán đoàn quân chỉ được vũ trang bằng gậy gộc. Huyền thoại về Kỳ Đồng lại được củng cố thêm với lời đồn là bị bắt giam, ông đã biến đi như có phép.

Để tránh sự tái diễn những sự kiện tương tự, các nhà chức trách Pháp quyết định đưa Kỳ Đồng đi Algérie học, với hy vọng rằng một khi đã bị đưa đi xa nhà như thế, ảnh hưởng của Kỳ Đồng sẽ phai nhạt đi, trong khi sự giáo dục theo lối Tây phương sẽ biến Kỳ Đồng thành một công cụ của Pháp.

Là học sinh nội trú tại trường trung học Algérie, Kỳ Đồng đậu bằng tú tài khoa học và cũng giành được bằng huấn luyện viên thể dục. Song những lần tiếp xúc của Kỳ Đồng với vua Hàm Nghi (bị đày sang xứ Algérie) không thoát khỏi tai mắt của người Pháp và chính quyền thuộc địa nghĩ rằng để Kỳ Đồng tại đó sẽ có hại nhiều hơn là có lợi. Vì vậy Kỳ Đồng được hồi hương vào giữa năm 1896.

Mặc dù vắng mặt trong thời gian dài nhưng lòng ái mộ mà dân chúng dành cho Kỳ Đồng vẫn không suy giảm chút nào. Trái lại, những lời truyền tụng về bản chất thần trợ của Kỳ Đồng lại được tung ra, và các sự thăm viếng tấp nập tại nơi Kỳ Đồng cư ngụ ở Hà Nội chẳng bao lâu lại khiến chính quyền thuộc địa để ý. Có lúc Kỳ Đồng được đề nghị đưa vào Huế để sống cạnh vua Thành Thái, nhưng các quan trong triều đã gạt bỏ đề nghị này.

Vào tháng 3/1897, Kỳ Đồng tiếp xúc với một y sĩ Pháp lập nghiệp tại Bắc Kỳ, Gillard. Nhân vật này mới được chính quyền cấp cho một khoảng đất rộng 4.000 hecta trong vùng Yên Thế. Trong một bức thư gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 31/3/1897, Kỳ Đồng xin phép mộ vài ngàn người tới làm việc tại đồn điền của Gillard. Không có đủ tài liệu về các điều kiện của sự cộng tác giữa Kỳ Đồng và Gillard, nhưng hình như Gillard đã muốn lợi dụng thanh thế của Kỳ Đồng đề có được nhân công rẻ tiền cho đồn điền.

Về phía Kỳ Đồng, có lẽ ông đã muốn mộ nghĩa đảng bằng cách dùng câu sấm Trạng Trình "Phá điền, thiên tử xuất. Bất chiến tự nhiên thành", và đã coi sự cộng tác với Gillard như là cơ hội thuận tiện để thực hiện tính toán này. Dù sao đi nữa, một sự di dân thật sự đã diễn ra trong vòng tháng 8 và 9/1897 với hàng ngàn người đổ xô tới vùng Yên Thế, đa phần là học trò, nhà nho và lính tập giải ngũ hơn là nông dân thực thụ.

Kỳ Đồng đích thân đứng ra lựa chọn những người tình nguyện theo ông và đòi hỏi mỗi người phải đóng góp một số tiền từ 10-20 đồng, ông cũng ra lệnh cấm đem theo đàn bà và trẻ con. Như thế, được tụ tập tại Chợ Kay, trong lãnh hạt Yên Thế, khoảng 8.000 người đàn ông. Những người này được tổ chức thành cơ, thành đội và được phân phối thành 7 làng.

Người đi, phong trào chưa chấm dứt

Trước một sự tụ họp đông đảo và bất thường như vậy, giới lãnh đạo Pháp bắt đầu e ngại. Viên sĩ quan chỉ huy khu vực Nhã Nam, đồng thời cũng có nhiệm vụ cai quản vùng Yên Thế là Peroz được thông báo là Kỳ Đồng đã tiếp xúc với các bộ lạc Thổ vùng lân cận và cả với vị lãnh tụ kháng chiến Đề Thám nữa.

Trong vùng châu thổ, nhà chức trách cũng bắt được một số truyền đơn công bố sự xuất hiện của một vị thần sẽ đuổi quân Pháp ra khỏi Bắc Kỳ để khôi phục vua Việt Nam và đem thái bình thịnh trị lại cho dân chúng. Vì vậy ngày 22/9, Peroz quyết định bắt giữ Kỳ Đồng và giải tán những người theo ông.

Chính quyền thuộc địa sợ rằng sức hấp dẫn của Kỳ Đồng có thể là nguồn căn của những sự xáo trộn khác. Vì thế, Kỳ Đồng được áp giải vào Sài Gòn. Song trong đêm 15/12/1897, các cuộc biểu tình đồng thời bùng nổ tại Hải Phòng, Hải Dương và Thái Bình.

Mỗi nơi, hàng trăm người mang gậy đi trên đường phố và đòi đập phá các nha môn. Các cuộc biểu tình này bị Pháp giải tán một cách dễ dàng, nhưng sự điều tra cho thấy các người lãnh đạo là những người đã theo Kỳ Đồng lên Yên Thế. Thế nên Toàn quyền Đông Dương nghĩ rằng khó lòng tiếp tục để Kỳ Đồng sống trên đất Việt.

Ngày 24/1/1898, ông ta ký quyết định đày Kỳ Đồng đi xứ Guyane thuộc Pháp. Nhưng cuối cùng, theo lệnh của Tổng trưởng Thuộc địa, Kỳ Đồng được đưa đi Tahiti.

Phong trào tạo nên bởi Kỳ Đồng không vì thế mà chấm dứt. Một số dự án tấn công thành Hà Nội và các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình bị khám phá vào đầu tháng 12/1898.

Trong những tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên và Thái Bình, vẫn xuất phát giữa những năm 1899 và 1903 những phong trào thần bí dựa trên lòng tin nơi khả năng xuất chúng của một vị lãnh tụ được các thần linh dìu dắt trong công cuộc đấu tranh với người Pháp để giành lại độc lập cho xứ sở, dưới một vị tân vương được Trời phù hộ hay dưới một vị vua dòng dõi.

Trong tỉnh Hải Dương còn có một tính toán, vào đầu thế kỷ XX, để tạo nên một Kỳ Đồng mới (theo một tài liệu, tên của tân Kỳ Đồng này là Lý Thanh Long hay Lý Văn Long – NV). Tính toán này sớm bị thất bại, nhưng chứng tỏ rằng vẫn có những người sẵn sàng lặp lại sự thí nghiệm của Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm. Và 10 năm sau khi ông bị phát vãng sang Tahiti, mục đích chính của lá thư công kích chế độ bảo hộ của Pháp tại Việt Nam nêu trên vẫn còn là để yêu cầu Anh quốc "giúp đưa Nguyễn Văn Cẩm về nước".

Sau này, các đơn thỉnh cầu mà Nguyễn Văn Cẩm đệ lên chính quyền Pháp để xin được giảm tội và được hồi hương đều bị bác bỏ. Ngày 17/7/1929, nhân vật xưa kia được mệnh danh là Kỳ Đồng qua đời năm 54 tuổi tại nhà thương Papeete.

danviet.vn