Nguyễn Bá Nghi sinh năm Đinh Mão 1807, người làng Thời Phố (sau đổi là Lạc Phố), huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi và mất năm 1870. Ông có hiệu là Sư Phần và là quan đại thần của nhà Nguyễn. Năm Tân Mão - 1831, dưới thời vua Minh Mạng (1820-1840), ông thi đỗ cử nhân tại trường Hương Thừa Thiên và năm sau - 1832, ông thi đỗ Phó bảng.
Buổi đầu, ông làm Tri huyện, sau thăng làm Tri phủ. Nhờ có tiếng là ngay thẳng, ông được trao chức Thự án sát tỉnh Vĩnh Long. Tại đây, có lần xử án và ông chưa làm hết trách nhiệm nên bị cách chức một thời gian. Đến đầu thời vua thiệu Trị - 1841, Nguyễn Bá Nghi làm thự giảng học sĩ, Tham biện việc Nội các, rồi thăng Thự thị lang bộ Lại, nhưng chẳng bao lâu sau ông lại bị giáng xuống chức vị cũ, phải theo thuyền sang Quảng Đông (Trung Quốc) làm việc. Khi thuyền bị cháy, Nguyễn Bá Nghi phải theo đường bộ về. Dọc đường, ông bị thổ phỉ nước Thanh cướp bóc, nhà vua nghĩ thương tình nên cất ông làm Thị độc học sĩ tham biện việc Nội các.Năm 1844, ông được thăng làm Thự bố chánh An Giang. Gặp lúc Chân Lạp muốn thần phục nhà Nguyễn, Đốc thần Nguyễn Tri Phương liền cử ông sang thương lượng. Năm 1846, Nguyễn Bá Nghi về kinh, giữ chức Thị lang bộ Lễ, sung làm việc ở Nội các. Năm sau, có kỳ xét công, ông được vua khen, chuẩn cấp cho hưởng lương tòng nhị phẩm.
Năm Tự Đức thứ nhất - 1848, nhà vua định bổ Nguyễn Bá Nghi làm Tuần phủ Hưng Hóa, nhưng xét thấy Hà Tiên là nơi trọng yếu, mà ông thì đã từng làm quan ở An Giang, nên đổi bổ ông đến đó. Không lâu sau, ông được cử làm Hộ lý Tổng đốc Bình Phú (Phú Yên và Bình Định), rồi Tham tri bộ Lại, sung Kinh duyên nhật giảng quan (giảng sử sách hàng ngày trong cung vua), Cơ mật viện đại thần.
Năm Ất Dậu (1853), có kỳ xét công, nhà vua cho ông là người chăm siêng, cẩn thận, nên đã bổ làm Tổng đốc Sơn Hưng (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang). Thời đó, các hạt ấy nước lụt luôn mấy năm, tình hình quẫn bách, Nguyễn Bá Nghi xin cho chẩn cấp cứu tế và xóa thuế ruộng cho dân, được nhà vua chấp thuận. Năm Tự Đức thứ 12 - tức năm 1859, nhà vua cho triệu ông về làm Thượng thư bộ Hộ và sung vào viện Cơ mật.
Năm Tân Dậu (1861), quân Pháp đánh hạ Đại đồn Chí Hòa ở Gia Định, tướng Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương, triều đình cử Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lý Gia Định, nhằm tìm ra cách đối phó với quân Pháp. Nhưng vì ngại vũ khí mạnh của đối phương, ông cử người đến gặp tướng Pháp là Leonard Charner để nghị hòa (thừa cơ hội này, quân Pháp đã đánh chiếm Định Tường ngày 14 tháng 4 năm 1961). Sau đó, ông mang việc này tâu về triều rằng:
- Việc nước ta ngày nay, trừ một chước hòa không có chước nào khác. Hòa thì không ổn rồi, nhưng trông mong sự khôi phục về sau…
Tiếp theo đó, tướng Nghi sai người đem thư nghị hòa sang đồn Pháp. Đô đốc Charner đòi triều đình Huế phải tiếp nhận 12 khoản, trong đó có khoản 2 (nhượng Định Tường và các vùng kế cận), khoản 4 (nhượng Thủ Dầu Một) và khoản 11 (bồi thường chiến tranh cho Pháp 4 triệu nguyên bạc)... là những điều tai hại nhất, khiến “triều đình thì chua xót mà dân chúng cũng nộ khí ngất trời”. Bởi vậy, vua Tự Đức đã ban dụ trách:
- Bá Nghi trước sau chỉ chủ hòa, vì trước đã vụng về, khinh xuất trong việc hòa giải nên giờ đây thêm khó. Vậy việc Nam kỳ, Tôn Thất Cáp lỗi lúc đầu, Nguyễn Tri Phương lầm lỡ khúc giữa, các người sau cũng không làm nên công trạng gì…
https://baobinhphuoc.com.vn