291 lượt xem

Thiền Sư Vạn Hạnh và sứ mệnh lịch sử

Thiền Sư Vạn Hạnh ( sinh khoảng năm 937–mất khoảng năm 1018 ) là một tu sĩ Phật giáo từng được sử sách thừa nhận đã giữ vai trò chủ chốt trong cuộc “đảo chánh” êm ả, không đổ máu đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập nên vương triều nhà Lý kéo dài 216 năm ( 1010-1226)  kế thừa vương triều Lê Đại Hành chỉ tồn tại 29 năm ( 980-1009 ).

            Sử sách ở đây gồm có những bộ sử về dân tộc Việt Nam nói chung và về lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”–(Bản Việt dịch in năm 2011 tại Hà Nội –Nhà Xuất Bản Thời Đại–viết tắt ĐVSKTT) ba lần nhắc tới Sư Vạn Hạnh trong Kỷ Nhà Lý . Một lần vào năm 977 , Lý công Uẩn được 3 tuổi, làm con nuôi Sư Lý Khánh Vân, đến chùa Lục Tổ học. Sư Vạn Hạnh lần đầu trông thấy đã khen là khác thường về sau có thể làm vua giỏi (trang 159) . Lần thứ hai, trước khi vua Ngọa Triều Lê Long Đĩnh chết vào năm 1009, Sư Vạn Hạnh đã khuyên Lý Công Uẩn nên lập chí thay ngôi nhà Lê vì lòng dân đều oán ghét sự tàn ác của Long Đĩnh và theo lời sấm vĩ đang loan truyền trong dân gian thì họ Lý sẽ thay họ Lê (trang 155). Lần thứ ba khi Sư Vạn Hạnh viên tịch, có lời bàn của Sử thần Ngô Sĩ Liên :”Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Công Uẩn, biết là người phi thường; đến khi sét đánh thành dấu chữ (trên cây) thì suy tính biết sự biến chuyển  của thì vận, thế thì tri thức hơn người thường” (trang 167). 

            Sách “Việt Nam Sử Lược”(viết tắt VNSL) của Trần Trọng Kim trong Chương IV-Nhà Lý– chép:”Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với Sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua”. 

            Trong sách “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận”( xuất bản lần đầu tiên năm 1973 tại Sài Gòn, in lại năm 2000,nhà xuất bản Văn Học Hà Nội–viết tắt VNPGSL )  tác giả Nguyễn Lang dẫn hành trạng của Sư Vạn Hạnh trích thuật từ sách “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục” in vào đời Lý Trần cho biết Sư từng đựơc vua Lê Đại Hành  tham vấn về việc nước, như khi nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân xâm lược , hoặc khi vua muốn đánh Chiêm Thành để cứu sứ giả Việt Nam bị vua Chiêm bắt giữ. “Vạn Hạnh, mà sau này được nhà Lý tôn xưng quốc sư, rất giỏi về chính trị và đã sử dụng sấm vĩ một cách tài tình trong cuộc cách mạng bất bạo động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua”……”Trong cuộc vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh đã vận động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu.”( trang 141). 

            Trong sách “Văn Học Đời Lý”(viết tắt VHĐL) (bản in năm  1957, Sài Gòn, nhà xuất bản Hướng Dương), tác giả Lê Văn Siêu viết :”Cuộc đảo chánh năm 1010 của Vạn Hạnh, sau cuộc đảo chánh năm 980  của Lê Hoàn, không mất một giọt máu, không gây một oan cừu, dầu muốn dầu không cũng đã là một tác phẩm nghệ thuật” ( trang 107)….”” Sư Vạn Hạnh khi thành công đã không chịu nhận một chức tước gì trong triều của ông vua vốn là học trò của mình, mà ngai vàng lại đã do chính tay mình đem đến, tư cách ấy nào khác gì với tư cách của Phù Đổng Thiên Vương” ( trang 111). 

            Trong sách ” Vạn Hạnh, Kẻ Đi Qua Cầu Lịch Sử” (bản in năm 1997, California, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ xuất bản–viết tắt VH,KĐQCLS), Hòa Thượng Thích Mãn Giác ( 1929-2006) viết :”Con đường Vạn Hạnh đi không phải là con đường lên núi làm một nhà tu cô đơn khổ hạnh, cũng không phải con đường đưa Sư đến chỗ ngồi nhìn vách quay lưng lại cuộc đời mà tu.   Con đường Sư đi là con đường hành động với con tim vô tư, vô cầu, với quyết ý dốc cả tâm can phò trợ những người khoan dung được lòng dân có hoài bão làm cho dân cho nước thịnh trị ” ( trang 28)….” …..”Biến một đứa con rơi sống nhờ cơm chùa thành một kẻ văn võ toàn tài và từ một kẻ văn võ toàn tài thành một vị vua sáng lập triều Lý thịnh trị dài lâu hơn hai trăm năm” ( trang 31).

            Sư Vạn Hạnh đứng trong hậu trường tạo ra thời cuộc. Con người ấy làm chính trị nhưng lại không trở thành một ông quan mũ cao áo dài đầy bổng lộc trên chính trường. Đại cuộc thành rồi , người vẫn chỉ mặc áo nâu sồng, muối dưa hai bữa đạm bạc. Ta hãy xét xem trong bối cảnh lịch sử nào và hệ tư tưởng nào mà Sư Vạn Hạnh lại có “tri thức vượt người thường” như thế.

1/ Bối cảnh lịch sử từ 938 đến 1009

            Khi Sư còn là một hài nhi thì người anh hùng Ngô Quyền ( 898-945) đã lập một chiến công lẫy lừng vào năm 938 quyết định nền tự chủ của dân tộc Việt Nam ra khỏi bóng tối 1000 năm Bắc Thuộc. Sau khi Ngô Quyền giết Thái Tử Hoàng Tháo của vua Nam Hán thì triều đình Nam Hán , cho đến khi bị diệt vào năm 970 bởi Tống Thái Tổ, không còn dám toan tính xâm lăng nước ta nữa. Giặc ngoài không còn nhưng nội loạn lại diễn ra sau khi Ngô Vương băng hà vào năm 945. Em vợ Ngô Vương là Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập. Lòng dân ly tán, hùng trưởng ở các địa phương nổi lên tự cai quản , cho dù con Ngô Vương là Ngô Xương Văn có đuổi được Dương Tam Kha rồi lập lại vương quyền cho họ Ngô vào năm 950 nhưng chính quyền trung ương yếu không dủ sức dẹp . Khi Ngô Xương Văn chết năm 965 thì nước Việt lâm vào tình trạng vô chủ với 12 sứ quân cát cứ 12 địa phương.

            Trong tình hình loạn lạc ấy, Sư Vạn Hạnh xuất gia năm 21 tuổi ( 958 ) làm đệ tử của Sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ , làng Cổ Pháp thuộc tỉnh Băc Ninh. Thiền Ông là đệ tử thế hệ thứ 11 của Thiền Phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi (TNĐLC). Như vậy Vạn Hạnh thuộc thế hệ thứ 12. Chính hệ tư tưởng của thiền phái này dẫn dắt các môn đồ đem thiền vào hành động xã hội chính trị. Tu không phải là chỉ nhìn vào vách để an tâm mình, cũng chẳng phải rút vào rừng núi xa nhân gian. Cái “chúng sinh” cụ thể phải “cứu độ” chính là quần chúng dân tộc đang đói rách vì loạn lạc, đang ngày đêm sống trong sợ hãi vì bị bắt lính, cướp bóc, giết tróc vô luật pháp hay là theo luật rừng của từng sứ quân.Trong sách “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận”, tác giả Nguyễn Lang đã nêu rõ tôn chỉ của thiền phái TNĐLC ( Chương V ) có ảnh hưởng đến tư tưởng của Vạn Hạnh như thế nào.

            Tôn chỉ của đạo Nho là “Tu thân,Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ”. Nho sĩ bắt buộc phải lập gia đình sanh con nối dõi tông đường, phải thi cử ra làm quan nhận mũ áo cân đai bổng lộc, phải đóng vai “cha mẹ của dân” để cai trị , phải trung với triều vua mà mình là thần tử. Cùng lộ trình đó , tu sĩ Phật giáo có nội dung khác hẳn. Tu sĩ không được lập gia đình để tâm mình không vướng vào vòng nhỏ hẹp vợ con cháu chắt mà rộng mở ra khắp chúng sinh để phục vụ. Vì vào đời phục vụ quần chúng nên dễ bị tài sắc danh lợi cám dỗ, tu sĩ phải qua bước tu thân rất khó khăn, khó hơn nho sĩ nhiều. Nếu nho sĩ tu học để sau này hưởng phú quý, tức là hưởng đủ ngũ dục–tài sắc danh thụy thực, thì tu sĩ Phật giáo tu học để chống lại ngũ dục. Ở giai đoạn này, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi chủ trương tu tâm dựa theo  tiêu chuẩn vượt ngôn ngữ văn tự, siêu hữu vô để đạt đến tâm vô tư, vô chấp, vô cầu. Kinh Tượng Đầu Tinh Xá nói: “Văn Thù Sư Lợi, Bồ Đề (tâm giác ngộ) siêu việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần điểm tựa”( VNPGSL-trang 119). “Phải quán ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới,thập nhị nhân duyên, sự lưu chuyển sinh tử, và các hình tướng thiện ác là huyễn hóa, không phải hữu cũng không phải vô”(sđd trang 121)

 Bước thứ hai tề gia, chẳng phải tề cái gia đình có vợ con cháu chắt mà tề cái gia đình tăng thân đang cùng tu trong chùa. Bước thứ ba trị quốc, tu sĩ  chỉ đóng vai cố vấn chính trị cho vua mà thôi, không lệ thuộc vào hệ thống quan cách. Như khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi năm 968 sau khi bình định 12 sứ quân, thiền sư Ngô Chân Lưu ( viên tịch năm 1011, thuộc thế hệ thứ 5 thiền phái Vô Ngôn Thông) được vua phong là Khuông Việt Đại Sư , không phải là một chức quan trong triều, mà chỉ là một danh hiệu cố vấn . Vị tu sĩ cố vấn này chỉ trung thành với dân tộc mà không trung với một triều vua, cho nên khi nhà Đinh mất ( 980), thiền sư vẫn đóng vai trò cố vấn cho vua Lê Đại Hành ( lên ngôi 981-băng hà năm 1004) nhất là trong việc giao tế với sứ thần nhà Tống. Pháp sư Đỗ Pháp Thuận (viên tịch năm 991, thuộc thế hệ thứ 10 thiền phái TNĐLC ) nổi tiếng trong vai trò tiếp sứ thần nhà Tống là Lý Giác, giúp cho uy thế của vua Lê Đại Hành càng vững vàng đối với triều đình nhà Tống ( xem sách ĐVSKTT , trang 142, sư Pháp Thuận giả làm lái đò , làm thơ đối đáp khiến Lý Giác kính phục dân tộc Việt). 

            Sở dĩ thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi đi sát với quần chúng Việt Nam là do yếu tố Mật Giáo

gần cận với tín ngưỡng thần linh trong dân gian.  Sự tin tưởng vào siêu lực của những câu thần chú, vào ảnh hưởng của phong thủy đối với nhà cửa cung điện trong đời sống hàng ngày, nuôi hy vọng vào một tương lai sáng sủa hơn qua sự bí mật truyền cho nhau những lời sấm ký có tính tiên tri…là những yếu tố vận động quần chúng của các vị sư. Tác giả Nguyễn Lang viết “Sự sử dụng thuật sấm vĩ và địa lý trong thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi nhất là trong lãnh vực chính trị, rất là quan trọng” (sđd-PGVNSL, trang 134).

            Trong 24 năm trị vì, vua Lê Đại Hành đã củng cố chính quyền trung ương vững mạnh, giữ yên cuộc nội trị, vừa làm cho nhà Tống phương Bắc kiêng dè, làm cho Chiêm Thành phương Nam nể sợ. Tiếc thay, vua là một ông vua sáng bên ngoài mà tối bên trong. Vua không nhìn thấy mầm loạn làm mất nhà Lê lại nằm ngay trong chính các con của mình. Lê Long Đĩnh, tính tình hung ác, dâm dật, đã dám giết người anh ruột từng tha thứ bao dung mình để cướp ngôi, thì còn ai mà không dám hành hạ để mua vui ( sđd–ĐVSKTT-trang 154). Xét về mặt tâm lý , hầu như Lê Long Đĩnh mắc chứng bệnh “sadism”, làm kẻ khác đau khổ mà mình cảm thấy khoái lạc. Tư cách người lãnh tụ như vậy mà cả triều đình im lặng hùa theo thì  mất nước là lẽ đương nhiên, như nhà nho thường nói “Thượng bất chính hạ tắc loạn”.

            Trong 4 năm trị vì ( 1005-1009), Long Đĩnh đã làm lòng dân quên hết công lao của vua cha, chỉ còn lửa oán giận nung nấu muốn lật đổ cả vương triều. Chính trong 4 năm u ám mà chế độ Ngọa Triều phủ lên đất nước , sư Vạn Hạnh quyết đi nước bài chót của ván cờ đã dàn từ mấy chục  năm.

2/ Từ tư tưởng đến hành động. 

a/ Giai đoạn hấp thụ truyền thống 958-980: Vào năm 21 tuổi khi đi tu theo thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi, trong 22 năm, sư VH đã hấp thụ hai truyền thống tinh thần–một là từ Tổ Tỳ Ni Đà Lưu Chi ( đến Giao Châu hành đạo năm 580 ) truyền xuống 11 đời về tôn chỉ tu hành ; hai là lòng yêu nước âm ỉ trong đáy sâu tâm hồn của toàn dân nuôi chí độc lập tự chủ trong suốt ngàn năm Bắc thuộc. Lòng yêu nước đó không phải là “chủ nghĩa yêu nước” mà là một sức mạnh tâm linh vượt cao hơn mọi chủ nghĩa, mọi hệ thống triết học du nhập từ ngoài như Phật giáo, Nho giáo, Lão Giáo, Duy Tâm sử quan hay Duy Vật sử quan . Sức mạnh đó đươc kết tinh và thể hiện bằng hành động nơi những cá nhân tài ba nổi lên lãnh đạo toàn dân chống Hán tộc :  Trưng ,Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Vương Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ.

            Hòa Thượng Thích Mãn Giác viết :”Cuộc khởi nghĩa thất bại của Phùng Hưng (năm 791 chống nhà Đường) và những biện pháp kềm kẹp tiếp đó đã làm cho người Việt Nam yêu nước phải suy nghĩ…….Sự suy nghĩ lại của người Việt Nam có học và có tiềm năng lãnh đạo chính trị

là phải ẩn nhẫn đào tạo nhân tài để chờ thời cơ thuận tiện. Nhà chùa trong thời Bắc thuộc lần thứ tư này quả đã tích cực theo chính sách đó” ( sđd VH,KĐQCLS trang 18-19). 

            Chính quyền đô hộ của người Tàu tất nhiên chỉ dùng nho sĩ làm các việc thư lại mà thôi,

và chỉ chăm lo xây đồn lũy, nhà tù và các trạm thu thuế, hầu như không xây dựng trường học hay mở mang các trung tâm văn hóa. Nhà chùa trở thành những nơi nương tựa tinh thần cho dân chúng, tức là nơi ấp ủ hồn dân tộc và nuôi dưỡng ý chí quật khởi.  Sư Định Không ( thế hệ thứ 8

thiền phái TNĐLC–mất năm 808) ngay từ năm 785 đã tiên tri tại làng Cổ Pháp tỉnh Bắc Ninh sẽ xuất hiện nhân tài họ Lý xây dựng nền móng lâu bền cho nền độc lập tự chủ của dân tộc (sđd VNPGSL trang 137). Vậy là lời tiên tri đó đã lưu truyền trong dân gian gần 200 năm khi nhà Đinh mất năm 980, khi sư VH hơn 40 tuổi và khi Lý Công Uẩn mới chỉ có 6 tuổi ( 974-980)  truyền qua 3 thế hệ thiền sư : Thông Thiện (thế hệ thứ 9), La Quý An ( thế hệ thứ 10), Thiền Ông (thế hệ thứ 11).

             Chính Cao Biền, một danh tướng của nhà Đường có tài phong thủy địa lý, cai trị đất Giao Châu 9 năm từ 866 đến 875 đã nhìn biết đất Cổ Pháp là địa linh sinh nhân kiệt nên cho đào 19 địa điểm để yểm phá theo lệnh của vua Đường Ý Tông (860-873). Nhưng chính sư La Quý An đã cho lấp cả 19 nơi như cũ. Sự truyền thừa ý chí quật khởi từ thế hệ này sang thế hệ khác giống như một cuộc chạy rước đuốc tiếp sức, có lẽ khi đến tay Vạn Hạnh thì đã chín mùi.

bGiai đoạn huấn luyện và tiến cử Lý Công Uẩn  981-1005 

            Mùa đông năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị ám sát bởi một kẻ hầu cận tên Đỗ Thich, nhà Đinh mất ngôi. Biến cố kinh hoàng này có thể đã khiến sư VH suy nghĩ về ảnh hưởng của phong thủy địa lý đến vận mệnh của một triều vua. Kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh không có khí vận lâu bền cho một vương triều. Khi vua Lê Đại Hành vẫn giữ Hoa Lư làm kinh đô, sư VH có thể tiên đoán vận số nhà Lê không dài . Tác giả Lê Văn Siêu viết :” Đất Hoa Lư vốn là nơi sơn động trong đó quyền thế tập của lang chúa còn to và vững. Đến như Lê Hoàn, Thập Đạo Tướng Quân, binh quyền ở cả trong tay mà vẫn phải chờ Dương Thái Hậu khoác áo long cổn cho mới chính thức được để lên ngôi Hoàng Đế. Áo long cổn ấy là biểu tương cái quyền của ông vua chung cho cả nước, mà cũng là biểu tượng cái quyền lang chúa ở riêng sơn động” ( sđd-VHĐL–trang 110). 

            Việc Đỗ Thích giết một lúc hai vua Đinh còn là một nghi vấn lịch sử. Có thể hắn bị xúi giục bởi những hùng trưởng thân với nhà Tống. Cũng có thể hắn bị mua chuộc bởi những lang chúa vùng sơn động mà uy quyền truyền thống trong giòng họ vẫn còn rất mạnh mặc dù ngủ ngầm. Vua Lê Đại Hành hẳn đã rút kinh nghiệm từ biến cố này nên phải tuyển quan ngự lâm người miền xuôi, văn võ đạo đức hoàn toàn để bảo vệ hoàng gia.

            Khi vua lên ngôi thay nhà Đinh năm 981, sư VH đã 44 tuổi, được vua mời vào triều tham vấn việc chính trị kháng Tống phạt Chiêm, chứng tỏ sư đựơc vua kính trọng và tin tưởng ngang với sư Pháp Thuận (thế hệ thứ 10). Năm này, Lý Công Uẩn được 7 tuổi, đã theo học sư VH ở chùa Lục Tổ. Sách ĐVSKTT chép :”Lúc còn trẻ thơ, (LCU)đến học ở chùa Lục Tổ, nhà sư Vạn Hạnh thấy khen rằng :”Đứa trẻ này không phải là người thường, sau này lớn lên, tất có thể giải quyết được mọi việc khó khăn, làm vua giỏi trong thiên hạ”(sđd-Kỷ Nhà Lý-trang 159).           

            Dưới sự giáo dục của sư, khi trưởng thành Lý Công Uẩn là người văn võ song toàn, lại sẵn có bản tính nhân từ , khoan thứ, tinh mật, ôn nhã. Hẳn là do sự tiến cử của sư VH mà chàng trai LCU được nhà vua tin dùng :”Lớn lên làm quan nhà Lê được thăng dần lên chức điện tiền chỉ huy sứ” (sđd–trang 159). Chức vụ này giống như quan võ cận vệ bên vua. Đầu năm 1004, hoàng tử thứ ba là Nam Phong Vương Lê Long Việt được phong làm Thái Tử. Lý Công Uẩn có nhiệm vụ phò Thái Tử để chuẩn bị lên ngôi kế nghiệp. Đầu năm sau 1005 vua băng hà, Thái Tử lên ngôi. “Vua lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh giết, bầy tôi đều chạy  trốn, duy có điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Lê Ngọa Triều khen là người trung , cho làmTứ sương quân phó chỉ huy sứ, thăng lên đến Tả Thân vệ điện tiền chỉ huy sứ” (sđd–ĐVSKTT- bản in năm 1993–Tập I, trang 240)( từ chức phó chỉ huy quân coi bốn mặt thành lên đến chức cận vệ)). 

            Long Đĩnh có tính tàn bạo, đã giết anh ruột thì bầy tôi ôm xác chủ mà khóc tất nhiên cũng sẽ bị giết. Thế mà Công Uẩn còn được Long Đĩnh khen là bầy tôi trung và cho làm cận vệ bên mình. Theo tác giả Lê Văn Siêu , sau đó sư Vạn Hạnh còn bầy kế để Công Uẩn lấy chị của vua làm vợ, lại cho em của vua là Bà Chúa Ba làm đệ tử tu hành ở chùa Hương ( sđd-VHĐL-trang 106 ). Như vậy thanh thế của Lý Công Uẩn trong triều rất lớn.

c/ Giai đoạn vận động quần chúng chuẩn bị cho Lý Công Uẩn lên ngôi 1005-1009

             Lòng dân oán ghét Lê Long Đĩnh càng ngày càng lớn trong 4 năm trị vì là môi trường thuận lợi cho việc vận động quần chúng chấp nhận thay ngôi đổi chúa. ĐVSKTT (ấn bản 2011, trang 155 ) chép lại một truyền thuyết theo đó sau khi cây gạo trồng ở hương Duyên Uẩn , châu Cổ Pháp ( trong chùa Minh Châu do sư La Quý An trồng từ năm 936 ) bị sét đánh, dân chúng thấy trên dấu sét đánh có bài thơ đại ý nói : Vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh, họ Lê mất thì họ Lý nổi lên. Sư VH cho loan truyền lời tiên tri này phù hợp với lời sấm truyền từ thời sư Đinh Không 200 năm trước. Chính sư lại bảo Lý Công Uẩn rằng :”Mới rồi tôi  trông thấy lời sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh tất dấy nên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay, người đứng đầu muôn dân chẳng phải ông thì còn ai nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may mắn muôn năm mới gặp một lần”. “  Nghe sư nói vậy, Công Uẩn sợ hãi lỡ ra bị tiết lậu nên cho người đem sư bí mật đi ẩn trốn ở làng Tiêu Sơn.  Đến khi Lê Long Đĩnh chết năm 1009, con còn nhỏ, quan Chi Hậu Đào Cam Mộc nói với Lý Công Uẩn:”Ông là người công minh dung thứ, khoan hồng nhân từ,lòng người phụ thuộc. Hiện nay trăm họ khốn khổ, dân không chịu nổi , ông nhân thế lấy ân đức mà vỗ về thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, ai có thể ngăn lại được?” . Rồi Cam Mộc cùng bá quan tôn phù Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tức Lý Thái Tổ  mở đầu cho triều nhà Lý kéo dài 216 năm.

            Lúc ấy sư VH đang ở chùa Lục Tổ nói với người chung quanh về biến cố xảy ra trong triều. Sư đã biết trước, dường như mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch vạch sẵn (sđd- VNPGSL-trang 143).

dGiai đoạn thiên đô từ Hoa Lư về Thăng Long 1010

             Tháng 10 năm 1009, Lý Thái Tổ lên ngôi tại Hoa Lư. Tháng 2 năm 1010 xa giá về quê Cổ Pháp ban thưởng tiền và lụa cho bô lão. Tháng 7 năm 1010 ban chiếu dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Thuyền đến bên thành có rồng vàng hiện ra trong thuyền ngự, bèn nhân đấy đổi tên thành Thăng Long, đổi châu Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức, đổi tên Hoa Lư thành phủ Trường Yên. Thế là cả một quá khứ hai triều Đinh Lê 42 năm từ 968 đến 1009 coi như lùi xa trong lòng dân để đón chào một tương lai rạng rỡ.

            Việc dời đô xảy ra nhanh chóng trong vòng mấy tháng thật ra đã được thai nghén từ rất lâu trong kế hoạch trăm năm của sư Vạn Hạnh. Tác giả Nguyễn Lang viết :”Về phong thủy học, các thiền sư Định Không (730-808), La Quý An ( 852-936), và Vạn Hạnh (937-1018) đều  là những người nổi tiếng . Ta có nhiều lý do để tin rằng quốc sư Vạn Hạnh , thầy của Lý Công Uẩn, là người đã thuyết phục vua này dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long trong ý nguyện bảo vệ cho nền độc lập được lâu dài……….Ta có thể nghĩ rằng thiền sư Vạn Hạnh vừa là người thảo chiếu, vừa là người thiết kế họa đồ cho kinh đô Thăng Long vậy” (sđd-VNPGSL-trang 136).

             Trong tác phẩm VHĐL, tác giả Lê Văn Siêu viết :”Việc kiến trúc đô thị, thì từ ngày lập quốc cho tới đời Lý, cũng như từ sau đời Lý cho tới ngày chúng ta đang sống (1957), chưa hề có một công cuộc xây dựng đại quy mô như vậy……….Đứng ở phương diện nghệ thuật thuần túy thì phải coi thành Thăng Long là một sáng tác phẩm vô cùng cao đẹp” (xem chi tiết trong sđd- Chương IV -Kiến Trúc Tinh Thần Thời Lý–trang 100 ).

             Sư VH không để lại những tác phẩm lý luận triết học dài ngàn trang như kiểu các triết gia phương tây. Những chuỗi lý luận triết học luôn luôn phải dùng những khái niệm trừu tượng, dùng chữ này để giải nghĩa chữ kia khiến cho tâm trí người lý luận luẩn quẩn với những từ ngữ vô vị. Điều này trái với tôn chỉ của thiền phái TNĐLC vốn chủ trương tu tâm phải vượt qua ngôn ngữ , siêu việt khái niệm có -không. Thầy truyền “tâm ấn” cho đệ tử bằng cử chỉ hay hành động hơn là bằng ngôn ngữ.  Đệ tử chứng được một trạng thái tâm giải thoát nào đó chỉ bằng cách tu tập thiền chỉ và thiền quán mà không bằng cách tìm hiều giải nghĩa kinh văn.

            Cái nhìn về lịch sử của các vị  sư thiền phái này không phải là một cái nhìn không tưởng viễn đích luận vốn chủ trương một giai cấp đặc biệt trong xã hội sẽ trở thành một giai cấp phổ quát  trong tương lai nhờ vào chế độ chuyên chính dùng bạo lực đàn áp các giai cấp khác. Đó cũng không phải là cái nhìn thực dụng với tâm trục lợi như kiểu Lã Bất Vi thời Đông Chu Liệt Quốc bên Trung Hoa  mưu mô buôn vua để mong hưởng vinh hoa phú quí cho bản thân.

            Mà đó là cái nhìn  với tâm vô chấp, vô cầu, dựa trên những điều kiện cụ thể hiện thực  : Yếu tố phong thủy hay địa lý, yếu tố nhân sự là quần chúng, yếu tố lãnh đạo là ông vua và tầng lớp  thừa hành lệnh vua gọi là quần thần. Trong trường hợp sư VH, thì sư đã tìm được nhân tài để huấn luyện thành một ông vua giỏi và đạo đức là Lý Công Uẩn, đã có quần thần giỏi là Đào Cam Mộc, đã có quần chúng đang chịu khổ ải về ông vua ác Long Đĩnh, vùng địa lý có phong thủy xấu là Hoa Lư , tốt là thành Thăng Long.  . Tiêu chuẩn tối cao làm lịch sử của sư là đào tạo một ông vua anh minh lo cho dân tộc độc lập tư chủ với ngoại bang và xây dựng hạnh phúc cho mọi tầng lớp xã hội. Việc đổi ngôi không đổ máu, không gây oán cừu là một hành động từ bi hiếm có trong chính trường.

            Sư VH viên tịch trước vua Lý Thái Tổ (băng hà 1028). Ba  triều vua kế tiếp của nhà Lý ( Lý Thái Tông 1028-1054 —Lý Thánh Tông 1054-1072—Lý Nhân Tông 1072-1127 ) đã củng cố nền độc lập tự chủ của dân tộc vững mạnh hơn cho đến đỉnh cao là dưới thời Lý Nhân Tông có danh tướng Lý Thường Kiệt vào năm 1075 trở đi lập đại công phá Tống bình Chiêm. Nhìn lại từ bước khởi đầu vào năm 1010 Lý Thái Tổ thiên đô về thành Thăng Long cho đến khi vua Lý Nhân Tông mất vào năm 1127, nhà Lý đã trụ hơn 100 năm. Trong lúc còn trị vì, chính vua Lý Nhân Tông đã nhìn nhận ảnh hưởng tinh thần to lớn của Sư Vạn Hạnh trong công cuộc dựng nên vương triều qua bài thơ truy tán công lao của Sư như sau :

                                                            Vạn Hạnh dung tam tế

                                                            Chơn phù cổ sấm cơ

                                                            Hương quan danh Cổ Pháp

                                                            Trụ tích trấn vương kỳ

Có bốn học giả dịch bài thơ này ra bốn phiên bản như sau:

1/ Lê Văn Siêu dịch nghĩa : Sư VH  thông cả ba nền học (tam giáo:Nho, Lão,Phật); sự ra đời của ngài thật rất hợp với lời sấm cổ. Ngài đã làm rạng danh quê nhà ở Cổ Pháp và đã chống gậy Phật để trấn giữ nơi đế đô  (VHĐL-trang 40).

2/ Nguyễn Đăng Thục dịch nghĩa : Thiền sư VH hợp nhất được ba cõi quá khứ, hiện tại, vị lai.

Đúng với tinh thần tiên tri thời cổ xưa. Quê hương  danh tiếng là Cổ Pháp ( kinh đô Phật giáo Việt Nam tối xưa ). Thiền sư đem gậy thiền học bảo vệ cho lãnh thổ quốc gia. (Xem sách  “Thiền Học Việt Nam–in năm 1966 tại Gia Định–Chương “Triết Lý dung tam tế của thiền sư Vạn Hạnh).

3/ Nguyễn Lang dịch thành thơ :  Hành tung thấu triệt ba đời. Ngữ ngôn phù hợp muôn lời sấm xưa. Quê hương Cổ Pháp bây giờ. Dựng cây tích trượng, kinh đô vững bền ( VNPGSL-trang 144).

4/ Hòa Thượng Thích Mãn Giác dịch thành thơ: Vạn Hạnh thông ba cõi. Thật hợp lời sấm xưa.

Quê nhà tên Cổ Pháp. Gậy chống giữ nghiệp vua.(VH,KĐQCLS–trang 13).

            Theo ý kiến thô thiển của chúng tôi, thì vua Lý Nhân Tông tán thán tài học của sư VH vì đã hòa hợp được ba nền học từ ngoài du nhập vào nước ta là Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo vào trong tâm hồn dân tộc thành một hệ tư tưởng riêng của Việt Nam, khiến cho nhà Lý vững vàng cho đến thời vua là hơn trăm năm và sẽ còn trụ cả trăm năm nữa. Mặc dù nhà Lý dứt nghiệp sau hai trăm năm nhưng đã xây dựng được nền móng vững chắc cho nền độc lập tự chủ với các tộc hiếu chiến phương Bắc, khiến cho mọi cuộc xâm lăng sau này của tộc Nguyên Mông, của Hán tộc Minh triều hay Mãn tộc Thanh Triều đều nếm mùi thảm bại.

            Chúng tôi xin phép kết luận bài này bằng lời nhận định của Hòa Thượng Thích Mãn Giác : “Và nếu Niết Bàn là nẻo tận của kẻ đạt đạo, thì Vạn Hạnh quả là người đã đã xông thẳng vào rừng chông gai của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn chuyển mình tự chủ để tiến vào nẻo ấy vậy”

(VH,KĐQCLS–trang 38).

Đào Ngọc Phong