285 lượt xem

thuyết minh đại nội Huế : kỳ 2


CUNG TRƯỜNG SANH

Cung Trường Sanh là một quần thể kiến trúc cung điện khép kín với tổng diện tích là 11,400m2, nằm ở phía Tây Bắc bên trong Hoàng thành Huế, phía Bắc giáp với hồ Nội Kim Thủy, phía Nam là cung Diên Thọ, phía Đông là Trực Phương Viên (thuộc khu vực Tử Cấm Thành). Cung Trường Sanh được xây dựng vào năm 1821, dưới thời vua Minh Mạng. Ban đầu cung có tên là cung Trường Ninh mang dáng dấp của một hoa viên dùng làm nơi dạo chơi, tiêu khiển của nhà vua. Kiến trúc ban đầu của cung có hình chữ “Tam”, gồm 01 điện chính ở giữa, 01 điện phía trước và 01 lầu ở phía sau cùng một số công trình phụ khác xung quanh. Đến năm 1846 dưới thời vua Thiệu Trị, cung được trùng tu lớn về quy mô và kiểu dáng kiến trúc, kiến trúc chính của cung giai đoạn này xếp theo hình chữ “Vương” với hệ thống hành lang nối kết các cung điện lại với nhau. Ngôi điện đầu tiên có tên là Ngũ Đại Đồng Đường (sở dĩ có tên gọi này là vì tháng 08 năm Thiệu Trị thứ 05, hoàng tử trưởng của vua Thiêu Trị là Hồng Bảo sinh được Hoàng tôn Ưng Đạo là đời thứ 05, nghĩa là 05 thế hệ chung một nhà ). Ở giữa là điện Thọ Khang, phía sau có lầu Vạn Phúc, tất cả nối nhau bằng một hành lang dài, sau lầu Vạn Phúc có xếp mấy ngọn đá giả sơn mang tên Bảo Sơn, Kình Ngư, Hổ Tôn…Vòng quanh cung có lạch nước nhân tạo mang tên Đào Nguyên, trên lạch hai bên trái và phải có dựng cầu để tiện đi lại. Cung quay mặt về hướng Đông, cửa chính của cung xây theo lối tam quan, trang trí đề tài hoa lá và ngũ sắc, phía Tây là cửa Thụy môn, phía Nam là cửa Hữu Hòa và cửa Thanh Minh nằm ở phía Bắc. Bắt đầu từ thời vua Đồng Khánh cung Trường Ninh trở thành nơi ăn ở của Thái Hoàng Thái Hậu (bà nội vua) và một số bà Hoàng Hậu sau khi vua băng hà, tức cung Trường Ninh trở thành Tây cung thứ hai sau cung Trường Thọ (sau là cung Diên Thọ). Theo sử sách, các bà Lệ Thiên (vợ vua Tự Đức), Từ Minh ( vợ vua Dục Đức) và Tiên Cung (vợ vua Đồng Khánh) đã từng sống ở cung này. Để chuẩn bị cho lễ “Tứ tuần đại khánh” (sinh nhật 40 tuổi) của mình vào năm 1923, vua Khải Định đã cho đại gia tu bổ cung Trường Ninh và đổi tên thành cung Trường Sanh, nhưng chức năng của công trình vẫn không thay đổi. Lần tu sửa này đã thay đổi hoàn toàn diện mạo cung Trường Ninh dưới thời Thiệu Tri. Trong chiến tranh cung Trường Sanh bị lãng quên và trở nên hoang phế. Từ năm 2005 – 2007, Trung tâm BTDT cố đô Huế đã trùng tu tôn tạo để ngày hôm nay cung Trường Sanh đã trở lại với vẻ đẹp ban đầu của nó. Bên cạnh đó để nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan đồng thời làm phong phú thêm hệ thống dịch vụ tại di tích Huế, tại cung Trường Sanh còn tổ chức một không gian văn hóa để trưng bày triển lãm các hiện vật gắn liền với đời sống của các bà trong cung nhà Nguyễn và một số hoạt động dịch vụ văn hóa liên quan.

CUNG DIÊN THỌ

Cung Diên Thọ, một biệt cung nằm ở phía Tây trong Hoàng thành, cung được xây dựng vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long, đây là nơi ăn ở của các bà Hoàng Thái Hậu (thân mẫu của nhà vua). Cung Diên Thọ là một trong những cung điện được xây dựng sớm nhất trong Hoàng thành và có nhiều tên gọi như: Trường Thọ, Từ Thọ, Gia Thọ, Ninh Thọ và Diên Thọ. Cho dù với tên gọi nào, thì đây cũng là nơi các vị vua Nguyễn thể hiện tấm lòng hiếu thảo của mình với mẹ, mong muốn mẹ sống lâu, vui vẻ và yên bình. Đặc biệt Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, đã ngự trị ở cung này 53 năm, khi mất bà hưởng thọ 92 tuổi. Cung Diên Thọ là nơi diễn ra các nghi lễ cung đình như: Tết Nguyên đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Đoan Ngọ, lễ Ngự tân cung, lễ Thánh thọ và lễ tang Hoàng Thái Hậu. Trong cung này một hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam được các bà Hoàng Thái Hậu gìn giữ, đó là tổ chức ươm tơ dệt vải. Với việc làm này các bà không chỉ làm gương cho thiên hạ mà còn thể hiện đức hạnh cần cù, chịu khó của người phụ nữ Việt Nam. Cung Diên Thọ là một tổ hợp kiến trúc được bố trí đăng đối, khoảng 20 công trình lớn nhỏ vừa phong phú về loại hình (điện, tạ, lầu, các) vừa đa dạng về phong cách kiến trúc, bởi chúng được xây dựng và cải tạo trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Có thể nói khu vực Diên Thọ cung là một tập hợp điển hình các phong cách kiến trúc của thời Nguyễn. Tất cả các công trình ấy nằm trong một khuôn viên hình chữ nhật với diện tích 17.506 m2, chung quanh được bao bọc bởi một vòng tường thành bằng gạch cao 03m. Cổng chính phía Nam có tên Thọ Chỉ, phía Đông là cửa Diên Khánh, phía Tây là Địch Tường và cửa phía Bắc là Diễn Trạch. Qua cửa Thọ Chỉ phía trước có bức bình phong dài 21m, cao 04m. Theo triết lý phong thủy, bình phong giúp cản bớt hỏa khí và hỏa phong từ phương Nam, ngăn cản tà khí xâm nhập vào ngôi điện. Phía Đông của bình phong này là hành lang nối thông qua Tử Cấm Thành để vua qua về vấn an Thái Hậu hoặc Thái Hoàng Thái Hậu. Hai bên phía trước bức bình phong có nhà Tả Hữu Túc đường, dành cho lính canh gác (hiện nay không còn). Sau bức bình phong, nằm ở vị trí trung tâm là Diên Thọ chính điện, nơi ở của Hoàng Thái Hậu, phía Đông chính điện có Trường Du Tạ, một công trình kiến trúc bằng gỗ xinh xắn là nơi ngắm cảnh, tiêu giao của các bà. Phía Tây chính điện có Phước Thọ Am (còn có tên gọi khác: Khương Ninh Các), là ngôi chùa nhỏ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của các bà trong cung. Lầu Tịnh Minh nằm ở phía Tây Nam chính điện là nơi nghĩ ngơi và chữa bệnh của mẹ vua. Đối diện có nhà Tả Trà, dành cho quan khách ngồi nghĩ ngơi trước khi được các bà tiếp kiến.. Nằm cách chính điện Diên Thọ phía sau chừng 20m là điện Thọ Ninh, được xây dựng năm 1849, là nơi ở của thân mẫu nhà vua (dành cho các bà mẹ thứ), diện tích điện có quy mô nhỏ và kiến trúc đơn giản. Đây là nơi để lại nhiều dấu ấn của đời sống sinh hoạt chốn nội cung triều Nguyễn, đặc biệt là từ nửa cuối thế kỷ XIX đến khi triều Nguyễn chấm dứt vào năm 1945. Do tác động của chiến tranh và sự tàn phá của thời gian, điện Thọ Ninh bị hư hại nghiêm trọng và đã được trùng tu hoàn chỉnh. Hai tòa điện này được nối nhau bằng hệ thống hành lang ngắn ở hai bên, tạo một khoảng sân vườn rộng ở giữa thông thoáng và mát mẻ. Ở hai bên phía sau điện Thọ Ninh là nhà bếp, nhà kho, nhà Thái giám và nhà cung nữ ở (hiện nay chỉ còn nền móng của công trình). Chung quanh cung Diên Thọ có đào 04 cái giếng mang phong cách khác nhau để điều hòa lấy nước sinh hoạt, đồng thời ở trong cung còn là nơi lưu giữ nhiều cây cổ thụ, cây kiểng vào loại quý như: Vải , nhãn, khế, tùng La Hán, đào tiên… hệ thống cây xanh nơi đây tạo nên một cảnh quan nhẹ nhàng, lãng mạn và thư thái. Đặc biệt sự có mặt của hệ thống hành lang ở cung Diên Thọ có mái che lợp ngói nối thông tất cả các công trình chính trong cung vừa tạo nên sự thống nhất bền vững, vừa tạo được vẻ mềm mại uyển chuyển của tổng thể kiến trúc trong khu vực cung. Từ sau triều Nguyễn cáo chung năm 1945, cung Diên Thọ bị xuống cấp, hiện vật bị hư hỏng và thất thoát.Trong những năm vừa qua một số công trình trong cung đã được đầu tư trùng tu hoàn chỉnh theo đúng nguyên bản.

PHƯỚC THỌ AM (KHƯƠNG NINH CÁC)

Do quy chế của triều đình vì vậy việc ra vào cung của phụ nữ trong Hoàng gia được quản lý rất nghiêm ngặt. Để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của các bà trong nội cung, năm 1831 vua Minh Mạng đã cho xây dựng Khương Ninh Các làm nơi thờ Phật, thờ các vị thần thánh nhằm phục vụ nhu cầu tâm linh của các bà. Khương Ninh Các nằm ở phía Tây Bắc của Diên Thọ chính điện, là một tòa kiến trúc hai tầng bằng gỗ, nằm quay mặt về hướng Tây, trong một khuôn viên độc lập và được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường khép kín. Phía trước Khương Ninh Các có xây một bể cạn hình chữ nhật trong đắp hòn non bộ, hai bên hồ có hai am nhỏ dùng để thờ các vị thần thánh. Khương Ninh Các có kết cấu hai tầng, tầng 01 gian giữa là bàn thờ hội đồng, phía sau là nơi ăn ở sinh hoạt của các bà phi tần lớn tuổi đã quy y hoặc xuất gia. Lối đi lên tầng hai có cầu thang gỗ, phía trước gian chính giữa là bàn thờ đặt ba pho tượng Phật tam thế, phía trên treo bức hoành phi “ Khương Ninh Các”, hai bên là bàn thờ Quan Công, Ngọc Hoàng thượng đế, các vị Hộ pháp. Phía sau tầng hai bàn thờ ở giữa thờ tranh và bài vị của Thánh Mẫu Thiên Y A Na, phía trên có bức hoành phi “ Phước Thọ Am”. Bàn thờ bên tả thờ bài vị các Công chúa Mỹ Tường, Diên Phúc là chị và cô của vua Gia Long, bàn thờ bên hữu thờ Tổ sư nghề hát bội. Khương Ninh Các là nơi dung hòa, kết hợp giữa Phật giáo và Thiên tiên thánh giáo, hai tôn giáo này có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của Hoàng gia triều Nguyễn và đại đa số bộ phận người dân xứ Thuận Hóa đương thời. Vì vậy, đây là nơi duy nhất trong các công trình kiến trúc triều Nguyễn có chức năng khá đặc biệt, có tới hai tên gọi: Khương Ninh Các và Phước Thọ Am.

CHÍNH ĐIỆN DIÊN THỌ

Là ngôi điện chính nằm ở vị trí trung tâm của cung Diên Thọ, tòa điện này được xây dựng năm 1804, là nơi ở và sinh hoạt của Hoàng Thái Hậu triều Nguyễn. Điện là tòa “nhà kép”, quay về hướng Nam, tiền điện kết cấu 07 gian 02 chái nối với chính điện gồm 05 gian 02 chái bằng bộ vì vỏ cua chạm trổ tinh xảo. Mái điện có hai tầng, lợp ngói hoàng lưu ly, trên các bờ nóc, bờ quyết trang trí hình tượng chim phượng hoàng được đắp nổi bằng sành sứ duyên dáng và sinh động, vừa thể hiện nơi ở vừa thể hiện sự cao quý của người phụ nữ quý tộc. Giữa hai tầng mái là cổ diêm với những ô hộc trang trí đề tài hoa lá màu sắc sặc sỡ . Bên trong nội thất tòa điện được chống đỡ bằng hệ thống các cột và vì kèo bằng gỗ, các họa tiết được chạm trổ tỉ mỉ và tinh xảo, nền điện lát gạch hoa, mặt trước và hai bên hệ thống cửa ra vào được lắp gương trắng để lấy ánh sáng và tạo sự thông thoáng. Phía trên gian giữa của chính điện đặt bức hoành phi sơn son thếp vàng khắc nổi 03 chữ “Diên Thọ Cung”. Trung tâm tòa điện đặt các bộ bàn ghế để Hoàng Thái hậu tiếp khách. Hai gian hai bên được ngăn riêng thành buồng kín làm nơi nghỉ ngơi. Trên các cột treo các bức tranh gương tả phong cảnh đẹp của kinh đô và miêu tả thời tiết. Chất liệu để vẻ loại tranh này là bột màu pha keo hoặc khảm xà cừ vào mặt sau của gương theo kiểu âm bản để nhìn mặt trước thành dương bản. Đây là loại hình mỹ thuật mang bản sắc riêng của triều Nguyễn. Dưới các bức tranh là các câu đối mang nội dung ca ngợi, chúc tụng công đức của các Hoàng Thái Hậu, bậc mẫu nghi thiên hạ. Hiện nay trong nội thất chính điện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, đó là những vật dụng sinh hoạt cá nhân như: khăn vấn tóc, gương soi… hay những dụng cụ để làm bánh, làm mứt…Thông qua các hiện vật này phần nào giúp cho chúng ta có một cái nhìn tổng quan về đời sống sinh hoạt đời thường của các bà trong cung.

TỊNH MINH LÂU

Lầu Tịnh Minh là công trình tọa lạc trên nền cũ của nhà hát Thông Minh Đường, nơi xem hát và xem diễn tuồng của Hoàng Thái Hậu. Năm 1927 vua Bảo Đại đã xây dựng tòa nhà này để làm nơi an dưỡng cho mẹ mình là Hoàng Thái hậu Từ Cung. Lầu Tịnh Minh kết cấu hai tầng có mặt bằng hình vuông. Kiến trúc của tòa lầu là sự kết hợp khéo léo giữa kiến trúc cung đình Huế và kỹ thuật xây dựng theo phong cách mới của phương Tây, phù hợp với khí hậu và văn hóa bản địa, tạo nên một tổng thể cân đối, hài hòa và có giá trị nghệ thuật cao. Tầng một bố cục hai tiền sảnh đối xứng trước và sau với kích thước, hình dáng cũng như các kiểu thức trang trí hoàn toàn giống nhau. Bốn mặt của cả hai tầng mỗi mặt đều trổ ba cửa lớn ra vào, hệ thống cửa gồm hai lớp trong kính ngoài chớp theo kiến trúc của Pháp tạo nên sự thông thoáng cho công trình. Phần móng tòa nhà được ốp đá trang trí theo hình lăng trụ, cao 90cm để chống ẩm. Tất cả góp phần tạo cho tòa nhà luôn thích ứng được với khí hậu nhiệt đới gió mùa. Hệ thống trụ trang trí đề tài hoa lá cảnh vật phong phú.Trên các bờ nóc bờ quyết, diềm mái, đầu hồi đều được trang trí hình tượng chim phượng, hoa lá, bát bứu, chữ thọ đắp nổi bằng xi măng khảm sành sứ rất tinh xảo. Kiến trúc của lầu Tịnh Minh góp phần làm sinh động thêm cho bức tranh toàn cảnh của Hoàng thành và làm phong phú thêm cho nghệ thuật xây dựng của triều Nguyễn.

TRƯỜNG DU TẠ

Dưới thời vua Tự Đức vào năm 1849, nhân dịp triều đình tổ chức đại trùng tu Cung Diên Thọ để mừng sinh nhật lần thứ 40 của bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, nhà vua đã cho xây dựng một công trình có tên Trường Du Tạ nằm ở phía Đông của chính điện Diên Thọ, là nơi thư giản và hóng mát của mẹ vua . Trường Du Tạ được xây theo lối “Phương Đình”. Năm 1917 dưới thời vua Khải Định, có xây thêm một đình Lương Phong nằm ở phía trước, có chức năng như một tiền sảnh, từ đình Lương Phong xây cầu nhỏ nối qua hai đảo giả đặt giữa hồ, tạo như một tiên đảo. Trường Du Tạ là một công trình xinh xắn hình chữ nhật dài 28m, rộng 20m, xung quanh trên bờ hồ có xây lan can uốn góc cao 0,9m; mái lợp ngói thanh lưu ly, trên các bờ nóc bờ quyết của tạ lấy đề tài bát bửu, hoa lá, con vật làm trang trí chủ đạo. Nội thất Trường Du Tạ kết cấu một gian hai chái, chung quanh ba mặt Đông, Tây và Bắc có các vách ngăn bằng gỗ bao bọc. Hai bức ngăn ở hai chái có kích thước và kiểu thức trang trí giống nhau với các ô hộc đề tài nhất thi nhất họa được khảm xà cừ,… Trường Du Tạ là công trình hài hòa với cảnh quan, hình thức trang trí giàu tính nghệ thuật, là một trong bốn nhà tạ cổ xưa còn lại của Kinh thành Huế. TẢ TRÀ Nhà Tả Trà là một công trình nằm trong tổng thể kiến trúc của cung Diên Thọ, là nơi dành cho quan khách nghỉ ngơi, chờ đợi trước khi được Hoàng Thái hậu tiếp kiến. Công trình này được xây dựng vào năm 1804, có kết cấu ba gian hai chái bằng gạch và gỗ, mái lợp ngói liệt có độ dốc cao. Năm 1917 dưới thời vua Khải Định nhà được cải tạo bằng bê tông cốt thép, nhà Tả Trà được thiết kế nhiều cửa ra vào cũng như cửa sổ để đón ánh sáng và tạo sự thông thoáng. Tuy nhiên, trải qua sự khắc nghiệt của thời tiết và chiến tranh tàn phá, nhà Tả Trà chỉ còn nền móng và một số cấu kiện của bộ khung nhà. Năm 2014 nhà Tả Trà đã được trùng tu, phục hồi. Lần trùng tu này có ý nghĩa to lớn để công trình được trở lại nguyên bản, từng bước phục hồi hoàn chỉnh cảnh quan cũng như các công trình kiến trúc của cung Diên Thọ nói riêng và Đại Nội nói chung; góp phần gìn giữ cung Diên Thọ và bảo tồn các giá trị của quần thể di tích Cố đô Huế. Hiện nay trong nội thất nhà Tả Trà trưng bày một số đồ hiện như: sập, bàn, tủ gỗ khảm cấn xà cừ, bộ bàn ghế sơn son thếp vàng theo phong cách thời vua Khải Định và những bức tranh gương đã được phục chế. Đặc biệt là chiếc kiệu của bà Hoàng Thái Hậu Từ Cung, mẹ Vua Bảo Đại và chiếc xe kéo của bà HoàngThái Hậu Từ Ninh, mẹ Vua Thành Thái. Chiếc xe kéo này do vua Thành Thái mua tặng cho mẹ để bà dạo chơi trong cung. Sau hơn 100 năm lưu lạc, tháng 06 năm 2014 chiếc xe đã được UBND tỉnh Thừa Thiên Huế cùng Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và kiều bào đấu giá thành công tại Pháp với tổng giá trị khi về đến Huế là 55,800 Euro. Việc đấu giá thành công và trưng bày chiếc xe kéo tại đây mang một ý nghĩa rất lớn khi lần đầu tiên Việt Nam đấu giá thành công tại sàn đấu giá quốc tế và đưa được cổ vật quý giá về lại quê hương.

CHIẾC KIỆU CỦA HOÀNG THÁI HẬU TỪ CUNG

Theo quy định của triều Nguyễn, kiệu là một phương tiện đi lại chỉ dành riêng cho Vua, Hoàng Thái hậu và Thái tử, những người có địa vị cao quý nhất trong hoàng tộc. Kiệu dành cho vua gọi là“Long liễn” hoặc “Ngự liễn”, thông thường có kết cấu gồm một cái ghế chạm thếp vàng có mái che, đặt trên một giàn đòn và có đến 16 khiêng (được chia làm hai hàng, mỗi hàng có tám người). Kiệu của Hoàng Thái hậu gọi là “Phụng liễn” có kết cấu giống“Long liễn”, nhưng thân kiệu được làm thành hộp để giữ sự kín đáo cho chủ nhân ngồi bên trong, cũng có 16 người khiêng. Đây là chiếc kiệu của bà Hoàng Thái Hậu Từ Cung, bà là mẹ của vua Bảo Đại. Bà là Hoàng Thái Hậu cuối cùng của triều Nguyễn và của cả chế độ phong kiếnViệt Nam. Tên thật của bà là Hoàng Thị Cúc (sinh năm 1890 và mất năm 1980 ), hưởng thọ 80 tuổi. Kiệu của Hoàng Thái Hậu Từ Cung đã trải qua hơn 01 thế kỷ, nhưng vẫn trong tình trạng tương đối tốt. Hai đầu tay đòn phía trước của kiệu được chạm hình đầu chim phụng, một loại chim biểu tượng của người phụ nữ hoàng tộc, hai đầu tay đòn phía sau chạm hình đuôi phượng. Thân kiệu bốn mặt được sơn son thếp vàng chạm trổ công phu, các mô típ trang trí kiệu mang đậm chất cung đình Huế. Phần trên của kiệu bốn mặt đều có màn che màu vàng, tạo sự kín đáo. Đây là một hiện vật vô cùng quý giá, chứa đựng những thông điệp của quá khứ, những tinh hoa của nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và nhiều bản sắc. Đồng thời thông qua hiện vật chúng ta còn hiểu thêm về lịch sử và một phương diện giao thông dưới triều đại phong kiến Việt Nam.

ĐIỆN PHỤNG TIÊN

iện Phụng Tiên nằm ở phía Tây Nam của Hoàng Thành. Ban đầu có tên gọi là Hoàng Nhân, được xây dựng dưới thời vua Gia Long năm 1814. Điện nằm ở phía Đông Nam của Hoàng Thành, là nơi thờ bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, vợ của Vua Gia Long. Năm 1820 vua Gia Long mất cũng được thờ tại ngôi điện này. Năm 1837 vua Minh Mạng đã đổi tên điện thành Phụng Tiên, sau đó cho di chuyển đến vị trí hiện nay với quy mô lớn hơn, là nơi thờ các vua và hoàng hậu triều Nguyễn, từ thời vua Gia Long trở về sau. Điện Phụng Tiên là một trong năm ngôi miếu thờ quan trọng nhất của triều Nguyễn, được xếp vào hàng liệt miếu thuộc bậc đại tự. Các vua nhà Nguyễn dành cho công trình này một sự quan tâm đặc biệt, từ việc chỉnh trang, tu bổ đến việc thân hành đến làm lễ trong các dịp cúng tế. Điều này thể hiện lòng hiếu kính tổ tiên của các vị vua triều Nguyễn nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Nếu Thế Miếu là ngôi miếu thờ vua và hoàng hậu mang tính quốc gia, nơi mà theo quan niệm Nho gia người phụ nữ không được tham dự, thì điện Phụng Tiên là ngôi miếu mang tính gia đình hoàng tộc, người phụ nữ được vào dự các cuộc lễ và chăm lo hương khói hàng ngày. Điện Phụng Tiên có tổng diện tích là 8.776m2, xung quanh được bao bọc bức tường thành cao 03m. Bên trong điện các công trình được xây dựng đăng đối, được phân chia thành những khu vực độc lập, ngăn cách với bên ngoài bởi các bức tường và có lối đi riêng. Điện có 01 cổng chính nằm ở phía Nam và 04 cổng phụ nằm ở phía Bắc. Cửa chính được thiết kế theo kiểu tam quan, lối giữa có kích thước to hơn là nơi dành cho vua đi, 02 lối đi hai bên dành cho các thành viên của triều đình. Trên các mái cong của cửa treo 24 chiếc chuông nhỏ, có tác dụng để mời gọi thần linh và xua đuổi tà ma. Ngay phía sau cổng chính là tấm bình phong có chiều dài 21,6m, cao 3,4m. Theo nguyên tắc triết lý phong thủy, công trình này nhằm giúp cản bớt hỏa khí và hỏa phong từ hướng Nam, ngăn cản những thứ khí chẳng lành xâm nhập vào ngôi diện. Sau bình phong là một bể nước lớn bên trong đặt hòn đá giả sơn. Điện Phụng Tiên nằm ở vị trí trung tâm, xây theo kiểu “nhà kép”. Chính điện có 09 gian, tiền điện 11 gian, là nơi thờ bàì vị của vua và hoàng hậu. Đặc biệt nơi đây còn thờ rất nhiều các đồ khí tự mà sinh thời các vua thường dùng. Từ sau năm 1947 điện Phụng Tiên hoàn toàn sụp đổ cùng với nhiều cung điện khác trong quần thể di tích Cố đô Huế, đó là tổn thất to lớn cho cố đô Huế nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Vào ngày 29 tháng 09 năm 2017, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cùng Hội Bảo tồn Di sản Cộng hòa Liên bang Đức đã phối hợp tổ chức lễ khởi công dự án bảo tồn phục hồi 03 hạng mục của điện Phụng Tiên bao gồm: cổng tam quan, bình phong và hòn non bộ. Dự án do Bộ Ngoại giao Cộng hòa Liên bang Đức thông qua Sứ quán tại Hà Nội tài trợ với nguồn kinh phí 2,8 tỷ đồng cùng 784 triệu đồng từ ngân sách của địa phương. Sau khi hoàn tất việc trùng tu điện Phụng Tiên như ban đầu, điện Phụng Tiên sẽ là nơi hấp dẫn du khách, đặc biệt là nơi góp phần giáo dục các thế hệ học sinh sinh viên biết thêm về lòng hiếu kính tổ tiên của các vua Nguyễn nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung; đồng thời cũng như hiểu rõ về truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của con người Việt Nam.

CỬA CHƯƠNG ĐỨC

Cửa Chương Đức là một trong bốn cổng của Hoàng Thành, cổng nằm ở phía Tây của Hoàng Thành, ngoài chức năng là cổng dành cho các bà trong cung ra vào, cùng với Tây Khuyết đài cổng Chương Đức còn góp phần phòng thủ bảo vệ triều đình và hoàng gia; đồng thời tạo sự ngăn cách đời sống sinh hoạt trong cung với xã hội bên ngoài. Quan niệm “tả nam hữu nữ, nam nhân nữ đức” là nguyên tắc quan trọng trong các công trình kiến trúc của triều Nguyễn. Tên Chương Đức ngụ ý nói đến “tứ đức” của người phụ nữ xưa. Cửa được xây dựng năm 1804 dưới thời vua Gia Long theo kiểu tam quan nhưng cách thức đơn giản và chưa có vọng lâu. Qua nhiều lần cải tạo, vào thời vua Khải Định năm 1921, cửa được sửa chữa và có sự tiếp thu cao về kỹ thuật cũng như vật liệu xây dựng; đặc biệt là hình thức trang trí đắp nổi sành sứ, thủy tinh. Nghệ thuật ghép sành sứ ở cửa Chương Đức đã đạt đến một trình độ cao, thực sự là một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển ghép sành sứ dưới triều Nguyễn nói chung và dưới thời vua Khải Định nói riêng. Cửa Chương Đức có ba tầng, trên các trụ thân cửa chia thành nhiều ô hộc, mỗi ô hộc trang trí với nhiều chủ đề khác nhau, đó là những bức tranh và là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Hệ thống mái lợp ngói hoàng lưu ly; đầu ngói tròn nổi nhô lên trên khắc nổi chữ “Thọ” trong khung tròn, đầu ngói chìm bên dưới khắc nổi đầu con dơi, mô típ trang trí này rất phổ biến ở các di tích của triều Nguyễn với ý nghĩa “Phúc Thọ Khang Ninh”. Từ sau khi triều Nguyễn cáo chung năm 1945, cửa Chương Đức ít được quan tâm, tu sửa. Đặc biệt do bom đạn trong chiến tranh đã làm cửa bị hư hại nhiều. Từ năm 2003 – 2004 cửa Chương Đức đã được trùng tu lại theo nguyên mẫu dưới thời vua Khải Định như chúng ta thấy hiện nay. HƯNG MIẾU Hưng Miếu (tức Hưng Tổ Miếu) nơi thờ chúa Nguyễn Phúc Luân, thân sinh của vua Gia Long. Ông bị quyền thần ngoại thích Trương Phúc Loan sát hại, và sau này được truy tôn miếu hiệu là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế. Hưng Miếu được dựng từ năm Gia Long thứ 03 (1804) ở góc Tây Nam trong Hoàng thành, tại vị trí Thế Miếu ngày nay với tên gọi là Hoàng Khảo Miếu. Năm Minh Mạng thứ 02 (1821), Hoàng Khảo Miếu được dời lùi về phía bắc chừng 50m để lấy chỗ dựng Thế Miếu và đổi tên thành Hưng Tổ Miếu. Hưng Miếu quay mặt về hướng Nam, xung quanh có xây tường bao bọc và hệ thống cửa ra vào . Miếu được xây theo lối “nhà kép”, chính đường 03 gian 02 chái kép, tiền đường 05 gian 02 chái đơn. Bên trong đặt khám thờ bài vị của Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế và Hoàng hậu. Lễ tế ở Hưng Miếu tổ chức mỗi năm 05 lần tựa như ở Thái Miếu và Thế Miếu. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tháng 02-1947, Hưng Miếu đã bị đốt cháy hoàn toàn. Năm 1951 bà Từ Cung và con là Quốc trưởng Bảo Đại đã thương lượng với hậu duệ của An Khánh vương và mua được phủ thờ của ông hoàng ấy từ Kim Long đưa về dựng lại trên nền cũ của Hưng Miếu để tiếp tục thờ ông bà Nguyễn Phúc Luân. Năm 1995 tòa nhà này lại được tu bổ thêm một lần nữa. Trong lần tu bổ này, miếu được sơn son thếp vàng. THẾ MIẾU ( THẾ TỔ MIẾU) Các vị vua nhà Nguyễn sử dụng hệ tư tưởng Nho Giáo để cai trị đất nước, hệ tư tưởng này đã ảnh hưởng đến cả thể chế và kiến trúc xây dựng trên các công trình. Khác với triều đình phong kiến Trung Hoa, nhà Nguyễn đã cho xây dựng trong Hoàng Thành 05 ngôi miếu thờ: Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu và Miếu Phụng Tiên; đồng thời hàng năm đặt ra nhiều lễ để thờ cúng, công việc thờ cúng được sắp đặt một cách quy cũ và theo trình tự: Đại tự – Trung tự và Quần tự. Trong đó Thế Tổ Miếu được đưa vào hàng Đại tự, đây cũng là khu vực thờ tự còn nguyên vẹn nhất của triều Nguyễn. Thế Tổ Miếu được xây dựng từ năm 1821 đến 1822 dưới thời vua Minh Mạng, ban đầu để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long ) và danh xưng Thế Tổ Miếu được đặt theo miếu hiệu này. Về sau Thế Miếu là nơi thờ các vị vua của triều Nguyễn. Trải qua nhiều biến cố lịch sử và vài lần tu bổ, sửa chữa, Thế Tổ Miếu vẫn được giữ nguyên kiểu kiến trúc ban đầu. Về kiến trúc Thế Tổ Miếu được thiết kế theo lối kiến trúc “trùng lương trùng thiềm”, gồm hai bộ mái với hai bộ kèo được nối với nhau bằng “trần thừa lưu” (còn gọi là trần vỏ cua), tạo thành một không gian nội thất chung, rộng rãi và thâm nghiêm. Nhà chính có 09 gian và 02 chái kép, nhà trước có 11 gian và 02 chái đơn nối liền nhau bằng vì vỏ cua chạm trổ rất tinh tế. Phần mái ngói của Thế Miếu vốn được lợp ngói hoàng lưu ly, trên đỉnh nóc gắn thái cực bằng pháp lam màu sắc rực rỡ. Thế Tổ Miếu là công trình được trang trí nhiều ô thi họa nhất, riêng thơ đã có đến 676 ô thơ nằm trên các liên ba, đố bản, cổ diềm tầng tầng lớp lớp. Những ô thơ này hầu hết đều chạm khắc sơn son thếp vàng và thể hiện theo lối “ nhất thi nhất họa”. Mỗi ô thơ đều chạm rất công phu bằng kỹ thuật chạm âm nền xuống để nổi bật chữ lên, tạo nên một bức thư pháp rực rỡ và độc đáo. Nội dung các ô thơ chủ yếu ngợi ca công đức của vua Gia Long, tán tụng công lao khôi phục cơ đồ, khai sáng triều đại, mở mang bờ cõi, đồng thời ca tụng nhiều chiến công hiển hách của nhà vua trong tư thế của một chiến tướng … Ở mỗi gian thờ được sắp xếp, trong cùng là khám thờ, tiếp theo là sập thờ, kỷ thờ, bàn thờ, ngoài cùng là án thờ. Án thờ vua Gia Long và 02 Hoàng hậu đặt ở gian giữa, các án thờ của những vị vua còn lại đều theo nguyên tắc “tả chiêu, hữu mục” để sắp đặt. Tuy nhiên, theo gia pháp của họ Nguyễn, các vị vua bị coi là “xuất đế” và “phế đế” đều không được thờ trong tòa miếu này, vì vậy trước năm 1958, bên trong Thế Tổ Miếu chỉ có 07 án thờ của các vị vua dưới đây: 1. Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và 02 Hoàng hậu Thừa Thiên, Thuận Thiên ( gian chính giữa). 2. Án thờ Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu ở gian tả nhất (gian thứ nhất bên trái, tính từ gian giữa). 3. Án thờ Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu ở gian hữu nhất (gian thứ nhất bên phải, tính từ gian giữa). 4. Án thờ Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu ở gian tả nhị (gian thứ hai bên trái). 5. Án thờ Giản Tông Nghị Hoàng Đế (vua Kiến Phúc) ở gian hữu nhị (gian thứ hai bên phải). 6. Án thờ Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu ở gian tả tam (gian thứ ba bên trái). 7. Án thờ Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế (vua Khải Định) và Hoàng hậu ở gian hữu tam (gian thứ ba bên phải). Đến tháng 10 năm 1958, án thờ 03 vị vua yêu nước vốn bị liệt vào hàng xuất đế là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc rước vào thờ ở Thế Tổ Miếu. Hiện nay án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian tả tứ (gian thứ tư bên trái). Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian tả ngũ (gian thứ năm bên trái) và án thờ vua Duy Tân đặt ở gian hữu tứ (gian thứ tư bên phải). Còn các vị vua Dục Đức, vua Hiệp Hòa và vua Bảo Đại đến nay vẫn chưa thờ trong Thế Tổ Miếu. Ở phía trước tòa miếu là sân rộng lát gạch Bát Tràng, hai bên có đôi Kỳ lân bằng đồng đứng uy nghiêm trong thiết đình. Đặc biệt ở góc cửa phía tây của Thế miếu có một cây thông cổ thụ, hình dáng uốn lượn rất đẹp, tương truyền được trồng từ khi xây dựng miếu. Trong khuôn viên của Hưng Miếu và Thế Miếu có nhà Thần Trù (nhà bếp), Thần Khố ( nhà kho) nằm song song với hai tòa miếu.

THUYẾT MINH HIỂN LÂM CÁC

Hiển Lâm Các nằm trong khu vực Thế Miếu, được xây dựng vào các năm 1821- 1822. Đây được xem như một đài kỷ niệm ghi nhớ công trạng các vua nhà Nguyễn, là nơi các hoàng đế hiển linh, chứng kiến sự hiếu thảo của con cháu khi có các cuộc lễ. Hiển Lâm Các là công trình bằng gỗ cao nhất bên trong Hoàng Thành, tòa nhà được xây trên một nền cao hình chữ nhật với kết cấu 03 tầng, giữa các tầng có tỷ lệ cân xứng, hài hòa với nhau. Kiến trúc Hiển lâm Các vững chải một phần nhờ vào sức chống đỡ của 24 cột gỗ, trong đó có 04 cột gỗ cao xuyên suốt 03 tầng làm xương sống cho tòa nhà. Các hệ thống liên ba, đố bản, vì kèo được những người thợ khéo léo chạm nổi các mô típ hình con rồng cách điệu hóa thành dây leo lá cuốn. Tầng thứ nhất của Hiển Lâm Các có ba gian hai chái, ba mặt ngoài xây vách bằng gạch để che nội thất và gia cố thêm hàng cột thấp. Phía trên cửa giữa treo bức hoành phi lớn có ba chữ “Hiển Lâm Các”, khung chạm hình 09 con rồng vờn mây sơn son thếp vàng. Chiếc cầu thang bằng gỗ nối lên tầng 02 được trang trí rất tinh tế với nhiều họa tiết chạm trổ công phu. Hai tay vịn chia thành các ô trang trí hình chữ “thọ”, chữ “vạn” và các đường“ kỷ hà”. Đầu và cuối tay vịn chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại, mặt thềm cầu thang chạm hình mây, sóng nước. Tầng thứ hai có ba gian, hai mặt trước sau dựng cửa lá sách, chung quanh bên ngoài là một hệ thống lan can bằng gỗ trau chuốt tỉ mỉ, những con-xơn chạm trổ công phu vừa có giá trị kết cấu, vừa để trang trí. Ngày trước, ở tầng này có đặt một sập Ngự và thư án. Tầng thứ ba chỉ có một gian, mặt trước và mặt sau dựng những cửa lá sách. Mái lợp ngói hoàng lưu ly, ở giữa đỉnh mái là hình bầu rượu bằng pháp lam màu vàng đặt trên án mây pháp lam ngũ sắc. Hai bên mặt nền tầng một của Hiển Lâm Các là cửa Tuấn Liệt (bên trái) và Sùng Công (bên phải), phía trên cửa có đặt lầu chuông và lầu trống. Bên ngoài hai cửa này là nhà Tả Vu và Hữu Vu, nơi thờ các công thần, thân huân của thời Nguyễn.

THUYẾT MINH CỬU ĐỈNH

Đối diện với Thế Tổ Miếu là Cửu đỉnh (09 cái đỉnh bằng đồng), được đúc vào các năm 1835-1836, dưới thời vua Minh Mạng. Cửu đỉnh do những người thợ thủ công ở Phường Đúc Huế thực hiện, những nghệ nhân đúc nên các đỉnh này từ các làng nghề đúc nổi tiếng ở Thanh Hóa và Bắc Ninh vào đây từ thời các chúa Nguyễn. Trên mỗi đỉnh khắc nổi 17 họa tiết và được xếp thành 03 tầng: trên, dưới, giữa chạy tròn theo quanh thân mỗi đỉnh. Những hình tượng tự nhiên như: mặt trời, mặt trăng, tinh tú… Hình ảnh của núi, sông, của biển, cửa quan…Các loài hoa, muông thú, sản vật, vũ khí, phương tiện v..v… Thể hiện vũ trụ quan và nhân sinh quan của người xưa, đồng thời đó là bằng chứng lịch sử và pháp lý về chủ quyền của một đất nước thịnh vượng và thống nhất và giàu đẹp. Mặt trước của thân đỉnh đúc nổi hai chữ Hán, chữ sau là chữ “đỉnh”, chữ còn lại là tên riêng của đỉnh: (Cao, Nhân, Chương, Anh, Nghi, Thuần, Tuyên, Dụ, Huyền), tên của đỉnh cũng là tên gọi miếu hiệu của từng vị vua nhà Nguyễn ứng với các án thờ trong Thế miếu. Cao Đỉnh miếu hiệu vua Gia Long (Thế Tổ Cao Hoàng Đế), Nhân Đỉnh miếu hiệu vua Minh Mạng (Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế), Chương Đỉnh miếu hiệu vua Thiệu Trị (Hiến Tổ Chương Hoàng Đế), Anh Đỉnh miếu hiệu vua Tự Đức (Dực Tông Anh Hoàng đế), Nghị Đỉnh miếu hiệu vua Kiến Phúc,Thuần Đỉnh miếu hiệu vua Đồng Khánh (Cảnh Tông Thuần Hoàng đế), Tuyên Đỉnh miếu hiệu vua Khải Định (Hoằng Tôn Tuyên Hoàng Đế), Dụ Đỉnh và Huyền Đỉnh, tên hai đỉnh sau cùng này chưa tượng trưng cho vua nào vì triều Nguyễn đã kết thúc. Mỗi đỉnh khác nhau về trọng lượng, nặng từ 02 tấn đến 2,7 tấn. Khi đúc đỉnh người thợ đã dùng 60 lò nấu đồng cùng một lúc, trung bình mỗi lò nấu chảy từ 30 đến 40kg đồng rồi tuần tự liên tục rót vào từng khuôn. Khuôn đỉnh chúc ngược lại, phía trên là 03 chân đỉnh, đồng nấu chảy đổ vào một trong 03 chân đỉnh. Cao Đỉnh có: Hình ảnh của Biển Đông, chủ quyền của quốc gia. Núi Thiên Tôn ở Thanh Hóa nguồn gốc của dòng họ Nguyễn, sông Bến Nghé ở Gia Định là vùng đất dấy nghiệp, kênh Vĩnh Tế thể hiện sự phát triển nông nghiệp, giao thông biên giới bờ cõi phía Nam… Nhân Đỉnh có: sông Hương, núi Ngự là thắng cảnh nổi tiếng của Kinh đô, kênh Phổ Lợi phát triển nông nghiệp. Hình ảnh cây ngô đồng, giống cây mang về từ Quảng Đông (Trung Quốc) tượng trưng cho sự thái bình thịnh trị… Chương Đỉnh có: hình ảnh của đất kinh đô như núi Kim Phụng, sông Lợi Nông, sông Gianh ở Quảng Bình, Biển Tây… Nghị Đỉnh có: Quảng Bình Quan ở Quảng Bình, sông đào ở Hưng Yên, sông Bạch Đằng chảy qua Hải Phòng- Quảng Ninh, biển Thuận An ở Huế… Anh Đỉnh có: hình ảnh sông Mã ở Thanh Hóa, sông Lô ở Tuyên Quang, núi Hồng Lĩnh ở Hà Tĩnh… Dụ Đỉnh có : cửa biển Đà Nẵng, sông Vĩnh Điện ở Quảng Nam, sông Vệ ở Quảng Ngãi, có Hải Vân Quan … Thuần Đỉnh có: núi Tản Viên (núi Ba Vì) ở Hà Tây, sông Thạch Hãn ở Quảng Trị, Cần Giờ cửa biển ở miền Nam… Huyền Đỉnh có: sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam, Hoành Sơn ở miền Trung, sông Thao ở miền Bắc… Ngày 17/7/2012 Cửu đỉnh triều Nguyễn đã được xếp vào danh mục bảo vật quốc gia Việt Nam. Tuyên Đỉnh có: núi Đại Lãnh ở Khánh Hoà, sông Lam ở Nghệ An và Hà Tĩnh, sông Hồng ở miền Bắc… PHỦ NỘI VỤ Phủ Nội Vụ nằm ở phía Đông bắc của Hoàng Thành. Là công trình được xây dựng dưới thời vua Gia Long, công trình này ban đầu có tên gọi là Phủ Đồ Gia nằm ở bên trong Tử Cấm Thành. Đến năm Minh Mạng thứ nhất (1820) Phủ Đồ Gia được đổi thành Phủ Nội Vụ, năm 1837 vua Minh Mạng đã quyết định dời Phủ Nội Vụ ra khỏi Tử Cấm Thành và đặt tại vị trí hiện nay. Phủ Nội Vụ là nơi quản lý (cất giữ, chế tác, nghiệm thu, dâng tiến, cấp phát…) các loại vàng bạc, châu ngọc, gấm vóc, tiền bạc và vật dụng quý phục vụ cho sinh hoạt của hoàng gia và triều đình. Đây là một cơ sở hậu cần trực tiếp của nhà vua, đồng thời là một dạng ngân khố của nhà nước quân chủ cuối cùng ở Việt Nam. Phủ Nội Vụ gồm có: sở Chi Thu, sở Nội Tạo và sở Đốc Công. Dưới thời vua Gia Long, Phủ Nội Vụ có 6 kho, đến thời vua Minh Mạng trở đi được nâng lên con số 10 kho gồm: Kho Kim Ngân (vàng bạc), Kho Châu Ngọc, Kho Cẩm Tú (gấm vóc), Kho Trân Ngoạn, Kho sa lĩnh, Kho vật dụng, Kho Thái phục (quần áo), Kho Văn ỷ (tơ lụa), Kho Dược phẩm (kho thuốc men, hương liệu), Kho Nhạc khí (đồ diễn tuồng, tấu nhạc, múa hát). Với quy mô rộng lớn, nhưng trãi qua nhiều biến cố lịch sử, các công trình ở Phủ Nội Vụ lần lượt bị triệt giải dần. Nhằm mục đích nâng cao chất lượng phục vụ du khách, trong thời gian qua Trung tâm BTDT cố đô Huế đã tiến hành triển khai một số hoạt động trưng bày và giới thiệu sản phẩm nghề truyền thống của Huế. Tại đây du khách vừa tham quan vừa được trải nghiệm các kỹ thuật truyền thống về cách làm nón, làm trầm hương…đồng thời có thể chọn mua cho mình những sản phẩm mang dấu ấn riêng của hoàng cung như: ngự trà Tịnh Tâm liên hoa, ngự tửu Hoàng triều Ngự tửu cùng các loại thảo dược làm nên thang thuốc nổi tiếng Minh Mạng thang.

TRIỆU MIẾU

Triệu Tổ Miếu hay còn gọi là Triệu Miếu, là 01 trong 05 miếu thờ quan trọng của triều Nguyễn, được xây dựng vào năm Gia Long thứ 03 (1804). Triệu Miếu nằm ở phía Đông Nam bên trong Hoàng Thành. Là nơi thờ ông Nguyễn Kim, thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Nguyễn Kim là người đã phò Lê Trang Tông khởi đầu cho sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Năm 1545 ông đã bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, sau này triều Nguyễn truy tôn miếu hiệu cho ông là triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế. Triệu Miếu được xây trong một khuôn viên hình chữ nhật. Về kiến trúc, miếu gồm 01 tòa nhà chính xây theo lối “nhà kép”, chính đường 03 gian 02 chái, tiền đường 05 gian 02 chái đơn. Bên trong nhà chính đặt án thờ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế và Hoàng hậu. Mỗi năm tổ chức 05 lần tế tương tự như ở Thái Miếu. Trải qua thời gian hơn 200 năm, do chịu nhiều tác động bởi thời tiết khắc nghiệt ở Huế, sự hủy hoại của chiến tranh, công trình miếu đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Được sự tài trợ từ Quỹ Bảo tồn Văn hóa của Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam trị giá 700,000 USD cùng với nguồn đầu tư ngân sách, dự án trùng tu Triệu Tổ Miếu đã được triển khai vào tháng 6/2014.

THÁI MIẾU

Thái Miếu được xây dựng dưới thời vua Gia Long vào năm (1804). Miếu được xây dựng ở phía Đông Nam bên trong Hoàng thành, nơi thờ đức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế (chúa Nguyễn Hoàng) và Hoàng hậu và cùng thờ các chúa: – Hiếu Văn Hoàng Đế ( chúa Nguyễn Phúc Nguyên) – Hiếu Chiêu Hoàng Đế (chúa Nguyễn Phúc Lan) – Hiếu Triết Hoàng Đế (chúa Nguyễn Phúc Tần) – Hiếu Nghĩa Hoàng Đế (chúa Nguyễn Phúc Trăn) – Hiếu Minh Hoàng Đế (chúa Nguyễn Phúc Chu) – Hiếu Ninh Hoàng Đế (chúa Nguyễn Phúc Chú) – Hiếu Võ Hoàng Đế (chúa Nguyễn Phúc Khoát) – Hiếu Định Hoàng Đế (chúa Nguyễn Phúc Thuần). Chỉ trừ Hiếu Định Hoàng Đế, còn các chúa khác đều thờ Hoàng hậu chung một án. Năm 1805, sau một năm xây dựng Thái miếu, vua Gia Long đã cho đặt thờ thêm các bài vị của những công thần: Tôn Thất Khê, Tôn Thất Hiệp, Tôn Thất Hạo, Tôn Thất Đồng, Nguyễn Ư Kỷ, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tấn, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Cư Trinh, đều là những người có công lớn đối với Chúa. Toà nhà chính kiến trúc theo kiểu“nhà kép”, chính đường 13 gian 02 chái kép, tiền đường 13 gian 02 chái đơn. Phía đông nhà chính là điện Long Đức, phía nam có điện Chiêu Kính. Đối diện với điện Chiêu Kính ở phía tây là điện Mục Tư, phía bắc điện này có toà nhà vuông. Phía trước Thái miếu có gác Tuy Thành (tên cũ là gác Mục Thanh) kết cấu 03 tầng, hình thức tương tự gác Hiển Lâm ở phía trước của Thế miếu. Phía nam gác Tuy Thành, hai bên có nhà Tả Vu và Hữu Vu. Bài vị của các công thần được đặt phối thờ ở hai nhà này. Trong khuôn viên của Triệu Miếu và Thái Miếu, có nhà Thần Trù (nhà bếp), Thần Khố ( nhà kho) nằm song song với hai tòa miếu.

TỔ TIÊN CÁC VỊ CHÚA NGUYỄN

Thủy tổ của dòng họ Nguyễn là ông Nguyễn Bặc, ông là một danh tướng đời nhà Đinh, đã giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Dưới thời nhà Lê, nhà Mạc nổi lên truy sát con cháu vua Lê, Nguyễn Kim (Nguyễn Cam) là một võ tướng dưới thời nhà Hậu Lê có công khôi phục nhà Lê, mở ra thời kỳ Lê Trung Hưng. Ngài được xem là tổ tiên của họ Nguyễn Phúc ở Miền Nam, khai sáng ra hệ 01 trong Nguyễn Phúc Tộc.

GIỚI THIỆU CÁC CHÚA NGUYỄN
1. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613): – Con thứ hai của Nguyễn Kim (người có công dựng ra Nam triều, sau được truy tôn là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế). Sinh vào tháng 08 năm Ất Dậu (1525). Thân mẫu người họ Nguyễn (con gái của quan Đặc Tiến Phụ quốc thượng tướng quân thự vệ sự triều Lê), sau được truy tôn là Tĩnh Hoàng hậu. – Vào trấn thủ Thuận Hoá tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558), đến tháng 11 năm Canh Ngọ (1570) thì kiêm quản cả xứ Quảng Nam thay cho Nguyễn Bá Quýnh. – Tháng 05 năm Quý Tỵ (1593) được phong làm Thái uý, Đoan Quốc Công – Ở ngôi Chúa 55 năm, dân thường gọi là Chúa Tiên, mất vào tháng 06 năm Quý Sửu (1613), thọ 88 tuổi. – Sau được truy tôn làm Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế. Trong thời gian ở ngôi, Nguyễn Hoàng đã cho quân đánh Chiêm Thành, mở rộng biên cương lãnh thổ đến khu vực tỉnh Phú Yên ngày nay. Trận đánh này xảy ra năm Tân Hợi (1611).
2. Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613- 1635) – Con thứ 06 của Nguyễn Hoàng, bốn người con đầu của Nguyễn Hoàng đều mất sớm, người con thứ 05 thì phải làm con tin ở Đàng Ngoài. Sinh vào tháng 07 năm Quý Hợi (1563). Thân mẫu người họ Nguyễn, sau được truy tôn là Gia Dũ Hoàng hậu. – Năm Nhâm Dần (1602) được làm trấn thủ Quảng Nam. – Nối nghiệp Chúa từ tháng 6 năm Quý Sửu (1613), xưng là Tiết chế thuỷ bộ chư dinh, Tổng nội ngoại binh chương quân quốc trọng sự, chức Thái bảo, tước Thuỵ Quận Công. – Ở ngôi Chúa 22 năm, dân thường gọi là chúa Phật hay chúa Sãi, mất vào tháng 10 năm Ất Hợi (1635), thọ 72 tuổi. Sau được truy tôn là Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế.
3. Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648) – Con thứ 2 của Nguyễn Phúc Nguyên. Sinh vào tháng 07 năm Tân Sửu (1601). Thân mẫu người họ Nguyễn, sau được truy tôn là Hiếu Văn Hoàng hậu. Nối nghiệp chúa từ tháng 10 năm Ất Hợi (1635), dân thường gọi là chúa Thượng, ở ngôi chúa 13 năm, mất vào tháng 2 năm Mậu Tý (1648), thọ 47 tuổi. – Sau được truy tôn là Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng Đế.
4. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648- 1687) – Con thứ 02 của Nguyễn Phúc Lan. Sinh vào tháng 06 năm Canh Thân (1620). Thân mẫu người họ Đoàn, sau được truy tôn là Hiếu Chiêu Hoàng hậu. – Nối nghiệp chúa từ tháng 02 năm Mậu Tý (1648), xưng là Tiết chế thuỷ bộ chư dinh, Tổng nội ngoại binh chương quân quốc trọng sự, chức Thái Bảo, tước Dũng Quốc Công, dân thường gọi là chúa Hiền. – Ở ngôi chúa 39 năm, mất vào tháng 03 năm Đinh Mão (1687), thọ 67 tuổi. Sau được truy tôn là Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế.
5. Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1687- 1691) – Con thứ 02 của Nguyễn Phúc Tần. Sinh vào tháng 12 năm Kỷ Sửu (1649). Thân mẫu người họ Tống, sau được truy tôn là Hiếu Triết Hoàng hậu. – Nối nghiệp chúa từ tháng 03 năm Đinh Mão (1687), xưng là Tiết chế thuỷ bộ chư dinh, Tổng nội ngoại binh chương quân quốc trọng sự, chức Thái phó, tước Hoàng Quốc Công, dân thường gọi là chúa Nghĩa. – Ở ngôi chúa 04 năm, mất vào tháng 01 năm Tân Mùi (1691), thọ 42 tuổi.  – Sau được truy tôn là Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng Đế.
6. Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) – Con trưởng của Nguyễn Phúc Trăn. Sinh vào tháng 05 năm Ất Mão (1675). Thân mẫu người họ Tống, sau được truy tôn là Hiếu Nghĩa Hoàng hậu. – Nối nghiệp chúa từ tháng 01 năm Tân Mùi (1691), xưng là Tiết chế thuỷ bộ chư dinh, Tổng nội ngoại binh chương quân quốc trọng sự, chức Thái bảo, tước Tộ Quận Công, dân thường gọi là Quốc chúa. Ở ngôi chúa 34 năm, mất vào tháng 04 năm Ất Tỵ (1725), thọ 50 tuổi. – Sau được truy tôn là Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế. – Trong thời gian ở ngôi, Nguyễn Phúc Chu có 03 lần mở rộng lãnh thổ: Lần thứ nhất: lấy hết phần đất còn lại của Chiêm Thành (năm Quý Dậu, 1693) biên giới cực nam của xứ Đàng Trong, từ đó kéo dài đến Bình Thuận ngày nay. Lần thứ hai: Lấy một phần đất Chân Lạp tiếp giáp với xứ Đàng Trong, tương ứng với miền Đông Nam Bộ ngày nay (năm Mậu Dần,1698). Lần thứ ba: nhận đất xứ Hà Tiên do Mạc Cửu dâng. Đất này tương ứng với toàn bộ tỉnh Kiên Giang, tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và một phần nhỏ của tỉnh An Giang và tỉnh Sóc Trăng ngày nay ( năm Giáp Ngọ, 1714). 7. Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1725- 1738) – Con trưởng của Nguyễn Phúc Chu. Sinh vào tháng 12 năm Bính Tý (1696). Thân mẫu người họ Tống, sau được truy tôn là Hiếu Minh Hoàng hậu. Nối nghiệp chúa từ tháng 04 năm Ất Tỵ (1725), xưng là Tiết chế thuỷ bộ chư dinh, Tổng nội ngoại binh chương quân quốc trọng sự, chức Thái phó, tước Đỉnh Quốc Công, dân thường gọi là Ninh Vương. – Ở ngôi chúa 13 năm, mất vào tháng 04 năm Mậu Ngọ (1738), thọ 42 tuổi. – Sau được truy tôn là Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng Đế.
8. Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738- 1765) – Con trưởng của Nguyễn Phúc Chú. Sinh vào tháng 08 năm Giáp Ngọ (1714). Thân mẫu người họ Trương, sau được truy tôn là Hiếu Ninh Hoàng hậu. – Nối nghiệp chúa từ tháng 04 năm Mậu Ngọ (1738), xưng là Tiết chế thuỷ bộ chư dinh, Tổng nội ngoại binh chương quân quốc trọng sự, chức Thái Bảo, tước Hiểu Quận Công, dân thường gọi là Võ Vương. – Ở ngôi chúa 27 năm, mất tháng 04 năm Ất Dậu (1765), thọ 51 tuổi. – Sau được truy tôn là Thế Tông Hiếu Võ Hoàng Đế. – Trong thời gian ở ngôi chúa, Nguyễn Phúc Khoát đã giúp Nặc Tôn lên ngôi vua Chân Lạp. Đáp lại Nặc Tôn đã cắt dâng miền đất nằm giữa Hà Tiên với miền đông Nam Bộ ngày nay cho chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ngoài ra, Nặc Tôn còn cắt tặng riêng cho Mặc Thiên Tử (con Mạc Cửu, người chỉ huy quân của chúa Nguyễn giúp Nặc Tôn) 05 châu nữa. Cả 05 châu đó, triều Nguyễn đã trả lại cho Chân Lạp vào năm đầu đời Tự Đức (1848).
9. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765- 1777) – Con thứ 16 của Nguyễn Phúc Khoát. Sinh vào tháng 11 năm Giáp Tuất (1754). Thân mẫu người họ Nguyễn, sau đi tu, được truy tôn là Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Sư. – Nối nghiệp chúa từ tháng 05 năm Ất Dậu (1765), ở ngôi chúa 12 năm, mất vào tháng 09 năm Đinh Dậu (1777), khi bị Tây Sơn đánh đuổi ở Gia Định.

II. LỊCH SỬ TRIỀU NGUYỄN

Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558), Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, mở ra một trang sử mới cho vùng đất này. Cùng với sự phát triển và củng cố quyền lực của họ Nguyễn ở Đàng Trong, mâu thuẫn với họ Trịnh ở Đàng Ngoài ngày càng gay gắt, gây nên cuộc chiến tranh chia cắt đất nước trong suốt hơn 200 năm. Bên cạnh đó, công cuộc Nam tiến để mở rộng bờ cõi cũng được đẩy mạnh. Đến năm 1757, các chúa Nguyễn đã xác lập chủ quyền trên toàn bộ vùng đất Nam bộ như chúng ta thấy ngày nay. Cùng với quá trình xây dựng và phát triển chính quyền xứ Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã nhiều lần dời lập thủ phủ từ Ái Tử (15581570) đến Trà Bát (1570-1600), Dinh Cát (1600-1626), Phước Yên (1626-1636), Kim Long (16361687), Phú Xuân (1687-1712), Bác Vọng (1712-1738) để rồi trở về dừng chân ở Phú Xuân một lần nữa (1738-1775). Năm 1775, dưới nhiều tác động của bối cảnh chính trị – xã hội, vị chúa Nguyễn cuối cùng đã để mất Phú Xuân vào tay quân Trịnh, tiếp đó là sự sụp đổ hoàn toàn trước sức mạnh của quân Tây Sơn cho đến khi một hậu duệ của họ Nguyễn, Nguyễn Ánh khôi phục lại cơ đồ và dựng nên vương triều Nguyễn sau này.
Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã thâu tóm giang sơn về một mối, lập nên vương triều Nguyễn, lấy niên hiệu là Gia Long. Phú Xuân trở thành Kinh đô của cả nước trong suốt 143 năm tồn tại của triều đại này. Kế tục sự nghiệp của ông, lần lượt 12 vị hoàng đế triều Nguyễn sau đó đã xây dựng Phú Xuân thành trung tâm chính trị, văn hóa, quyền lực của một nhà nước Việt Nam thống nhất từ Bắc đến Nam. Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn năm 1804 dưới triều vua Gia Long. Năm 1839 vua Minh Mạng đổi tên nước thành Đại Nam với ngụ ý một nước Nam rộng lớn, quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945. (khi vua Bảo Đại thoái vị). Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19, trải qua hai giai đoạn chính: – Từ năm 1802 – 1858 là giai đoạn độc lập, từ khi vua Gia Long thống nhất đất nước đến các đời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. – Từ năm 1858 – 1945 là giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào tháng 08 năm 1945.

GIỚI THIỆU CÁC VUA NGUYỄN.

1.Vua Gia Long – Tên thật: Nguyễn Phúc Ánh Ngày sinh: Ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (08/02/1762). Năm lên ngôi: Ngày 02 tháng 05 năm 1802 (01/06/1802) Thời gian trị vì: 18 năm (18021820). Ngày mất: Ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (03/02/1820) Miếu hiệu: Thế Tổ Cao Hoàng Đế . Trong suốt 25 năm bôn ba chinh chiến, vua Gia Long đã khôi phục lại cơ nghiệp dòng tộc của mình, vua là người có công thống nhất mảnh đất chữ S và xác định chủ quyền với đảo Hoàng Sa – Trường Sa, đặt tên quốc hiệu Việt Nam. Nhà vua cho kiến lập hệ thống Lục Bộ và tập trung chấn chỉnh về quân sự, ngoại giao. Chú trọng đến việc học hành thi cử để tuyển chọn nhân tài.
2. Vua Minh Mạng Tên thật: Nguyễn Phúc Kiểu Ngày sinh: Ngày 23 tháng 04 năm Tân Hợi (25/05/1791) Năm lên ngôi: Tháng Giêng năm Canh Thìn (1820) Thời gian trị vì: 21 năm (1820 – 1841). Ngày mất: Ngày 28 tháng Chạp năm Canh tý (20/01/1841). Miếu hiệu: Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế Trong 21 năm ở ngôi, vua Minh Mạng đã có nhiều cải cách quan trọng từ nội trị đến ngoại giao: cho bỏ các dinh và trấn, thành lập các tỉnh (cả nước lúc bấy giờ có 31 tỉnh); định lại quan chế, đặt mức lương bổng của các quan ; thống nhất việc đo lường, thống nhất y phục; khuyến khích dân khai hoang lập ấp; sửa sang hệ thống giao thông; lập nhà Dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ tàn tật và những người già cả không nơi nương tựa. Đặc biệt nhà vua đề cao Nho học và khuyến khích nhân tài. Lãnh thổ được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành quốc gia hùng mạnh, vì vậy vào năm 1838 vua Minh Mạng đã cho đổi tên nước thành Đại Nam.
3. Vua Thiệu Trị Tên thật : Nguyễn Phúc Miên Tông Ngày sinh: Ngày 11 tháng 05 năm Đinh Mão (16/06/1807) Năm lên ngôi: Ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11/02/1841) Thời gian trị vì: 07 năm (1840 – 1847). Ngày mất: Ngày 27 tháng 09 năm Đinh Dậu (04/10/1847). Miếu hiệu: Hiến Tổ Chương Hoàng Đế Vua Thiệu Trị là người hiền hòa, siêng năng việc nước, nhưng không bày ra những việc mới, việc nội trị dưới thời vua cũng như ngoại giao đều mong giữ gìn những thành quả đạt được, nối tiếp và hoàn thiện những công việc còn dở dang. Vua chú trọng việc học hành, cho tiếp tục soạn bộ “Thực lục tiền biên”, bộ “ Đại Nam hội điển sử lệ”, đồng thời bản thân nhà vua cũng nổi tiếng là người giỏi thơ văn, nổi bật nhất là “ Thần Kinh nhị thập cảnh’’.
4. Vua Tự Đức Tên thật: Nguyễn Phúc Hồng Nhậm Ngày sinh: Ngày 25 tháng 08 năm Kỷ Sửu (22/09/1829) Năm lên ngôi: Tháng 10 năm Đinh Mùi (1947) Thời gian trị vì: 36 năm (18471883) Ngày mất: Ngày 16 tháng 06 năm Quý Mùi (19/07/1883) Miếu hiệu: Dực Tông Anh Hoàng Đế Tự Đức là vị vua ham học, hiểu rộng và đặc biệt giỏi văn thơ. Đã được người đời ca tụng là một ông vua rất có hiếu. Triều đại của ông đã diễn ra nhiều biến cố với vận mệnh Đại Nam, phải đối phó với thế lực phương Tây nhưng cuối cùng vẫn để quyền đất nước rơi vào tay người Pháp.
5. Vua Dục Đức Tên thật : Nguyễn Phúc Ưng Ái Ngày sinh: Ngày 04 tháng 01 năm Quý Sửu (11/ 02/ 1853) Năm lên ngôi: Ngày 19 tháng 07 năm 1883 Ngày mất: Ngày 06 tháng 10 năm 1883 Nhưng ông chỉ tại vì được ba ngày thì bị 02 vị phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hãm hại, phế truất ngôi vua.
6. Vua Hiệp Hòa Tên thật: Nguyễn Phúc Hồng Dật Ngày sinh: Ngày 01 tháng 11 năm 1847 Năm lên ngôi: năm 1883 Ngày mất: Ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29/ 11/1883) Sau khi phế Dục Đức, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đưa Lãng Quốc công Hồng Dật lên làm vua, vì bất đồng quan điểm nên bị hai quan phụ chính ép uống thuốc độc chết sau khi tại vị được 04 tháng.
7.Vua Kiến Phúc Tên thật: Nguyễn Phúc Ưng Đăng, Ngày sinh: Ngày 02 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12/2/1869) Năm lên ngôi: Ngày 03 tháng 11 năm Quý Mùi (02/12/1883) Thời gian trị vì: 08 tháng ( 18831884) Ngày mất: Ngày 10 tháng 06 năm Giáp Thân (31/07/1884) Ông là vị quân chủ yểu mệnh nhất của nhà Nguyễn, băng hà lúc mới 15 tuổi.
8. Vua Hàm Nghi Tên thật: Nguyễn Phúc Ưng Lịch Ngày sinh: Ngày 17 tháng 06 năm Tân Mùi (03/8/1871) Năm lên ngôi: Ngày 12 tháng 06 năm Giáp Thân (02/08/1884) Thời gian trị vì: 01 năm (1884 – 1885) Ngày mất: Ngày 14 tháng 01 năm 1944 Được hai trọng thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi ở tuổi 13. Năm 1885 sau trận tập kích Pháp thất bại, được Tôn Thất Thuyết hộ giá và nhân danh ông phát động phong trào Cần Vương chống Pháp, sau 3 năm thì bị người Pháp bắt và đem an trí ở Algérie sau đó qua đời tại đây.
9. Vua Đồng Khánh Tên thật: Nguyễn Phúc Ưng Biện Ngày sinh: Ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19/12/1864) Năm lên ngôi: tháng 08 năm 1885 Thời gian trị vì: 03 năm (1885 – 1888) Ngày mất: Ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý (28/01/1889) Miếu hiệu: Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế Vua Đồng Khánh được tướng Pháp đề nghị lập làm vua lúc vua Hàm Nghi rời khỏi triều đình theo phong trào Cần Vương. Ông là vị vua đầu tiên của triều Nguyễn chịu sự bảo hộ của người Pháp.
10. Vua Thành Thái Tên thật: Nguyễn Phúc Bửu Lân Ngày sinh: Ngày 22 tháng 02 năm Kỷ Mão (14/03/1879) Năm lên ngôi: Ngày 01 tháng 02 năm 1889 Thời gian trị vì: 19 năm (1889 – 1907) Ngày mất: Ngày 18 tháng 2 năm Ất Mùi (09/03/1955) Là vị vua có tư tưởng cầu tiến, yêu nước, có hiểu biết khá toàn diện. Khác với những vị vua trước đây, ông học tiếng Pháp, cắt tóc ngắn mặc âu phục, làm quen với văn minh phương Tây. Nhà vua có tinh thần chống Pháp rất cao, nên đến năm 1907 ông bị Pháp ép thoái vị, sau đó đày sang đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân.
11. Vua Duy Tân Tên thật: Nguyễn Phúc Vĩnh San Ngày sinh: Ngày 26 tháng 08 năm Canh Tý (19/09/1900) Năm lên ngôi: Ngày 28 tháng 07 năm Đinh Mùi (05/09/1907) Thời gian trị vì: 09 năm (1907 – 1916) Ngày mất: Ngày 21 tháng 11 năm Ất dậu (25/12/1945) Khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đưa đi lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp. Năm 1916 ở Châu Âu có cuộc Thế chiến thứ Nhất, ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như: Thái Phiên, Trần Cao Vân dự định khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt đem an trí cùng vua cha Thành Thái ở đảo Réunion Ấn Độ Dương.
12. Vua Khải Định Tên thật: Nguyễn Phúc Bửu Đảo Ngày sinh: Ngày 01 tháng 09 năm Ất Dậu (08/10/1885) Năm lên ngôi: Ngày 18 tháng 05 năm 1916 Thời gian trị vì: 09 năm Ngày mất: Ngày 20 tháng 09 năm Ất Sửu (06/11/1925 ) Miếu hiệu: Hoàng Tông Tuyên Hoàng Đế Tuy kế nhiệm vua Duy Tân, nhưng Khải Định là ông vua thân Pháp nên không có được cảm tình của nhân dân.
13. Vua Bảo Đại Tên thật: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy Ngày sinh: Ngày 03 tháng 09 năm Quý Sửu (22/10/1913) Năm lên ngôi: Ngày 25 tháng 11 năm Ất Sửu (08/01/1926). Thời gian trị vì: 21 năm (1925 – 1945) Ngày mất: Ngày 31 tháng 07 năm 1997 Bảo Đại là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn nói riêng và của chế độ quân chủ lịch sử Việt Nam nói chung. Ông được đào tạo theo Tây học, hào hoa lịch lãm, mạnh dạn bỏ một số tập tục của các vua đời trước, thực hiện nhiều cải cách về nội các, hành chính. Trong bản Tuyên ngôn thoái vị bàn giao đất nước cho đại diện cách mạng lâm thời, ông có câu nói nổi tiếng:“Trẫm muốn làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước nô lệ”.
Như vậy, với 143 năm tồn tại, triều đại nhà Nguyễn đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong lịch sử dân tộc, đây chính là giai đoạn lịch sử dân tộc chuyển tiếp từ thời Trung đại sang Cận đại để bước vào thời hiện đại. Triều Nguyễn là một triều đại mà trong buổi đầu của nó được xem là đỉnh cao của chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam, với một lãnh thổ quốc gia rộng lớn và thống nhất, một nền hành chính khá vững chắc và quy củ cùng sự phát triển rực rỡ về văn hoá.Nhưng với bối cảnh lịch sử Việt Nam thời bấy giờ và sự tấn công xâm lược ồ ạt của Phương Tây, cuối cùng nhà Nguyễn đã để mất chủ quyền và đất nước rơi vào trong tay người Pháp. Riêng đối với Huế, trong mấy trăm năm làm chủ vùng đất này, họ Nguyễn đã biến một vùng đất vốn là “Ô châu ác địa” trở thành thủ phủ của Đàng Trong rồi kinh đô của cả nước. Cho đến nay, Huế là nơi duy nhất của nước ta còn giữ được khá nguyên vẹn diện mạo của một Kinh đô quân chủ phong kiến phương Đông.

LỜI KẾT

Huế là nơi duy nhất của Việt Nam có đến 05 di sản văn hoá đã được Unesco công nhận, đó là những thành tựu văn hóa mang giá trị nổi bật toàn cầu , là khối di sản văn hóa quý báu cần được trân trọng, giữ gìn và bảo vệ. – Quần thể di tích Cố đô Huế (Di sản văn hoá của nhân loại 1993) – Nhã nhạc cung đình (Di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại 2003) – Mộc bản triều Nguyễn (Di sản tư liệu thế giới 2009) – Châu bản triều Nguyễn (Di sản tư liệu thế giới 2014) – Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (Di sản tư liệu thế giới 2016)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phúc Tộc thế phả – Hội đồng trị sự Nguyễn Phước Tộc. Nxb Thuận Hóa, 1995.
2. Đại Nam Thực Lục chính biên – Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Nxb Khoa Học xã hội, Hà Nội, 1968, tập XIX.
3. Đại Nam nhất thống chí – Quốc sử quán triều Nguyễn. Sài Gòn xuất bản, từ 1959 đến 1962. 4. Đại Nam nhất thống chí – Quốc sử quán triều Nguyễn. Nxb Khoa IV học xã hội, Hà Nội, 1969; Nxb Thuận Hóa 1997.
5. Thần kinh nhị thập cảnh – Thiệu Trị – Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế. Nxb Thuận Hóa, 1997.
6. Những người bạn Cố đô Huế (B.A.V.H) 1914 – Nhiều tác giả. Nxb Thuận Hóa, 1997.
7. Khâm địnhĐại Nam hội điển sử lệ – Nội các triều Nguyễn. Nxb Thuận Hóa, 1993.
8. Kiến trúc Cố đô Huế – Phan Thuận An. Nxb Thuận Hóa, 1999
9. Huế Xưa và Nay – Di tích và thắng cảnh – Phan Thuận An. Nxb Văn hóa Thông tin, 2008.
10. Các triều đại Việt Nam – Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hưng. Nxb Thanh niên 1995.
11. Cố đô Huế – Thái Văn Kiểm. Sài Gòn xuất bản, 1960.
12. Dấu ấn Nguyễn trong văn hóa Phú Xuân. Phan Thanh Hải. Nxb Thuận Hóa, 2003
13. Kể chuyện chín chúa – mười ba vua triều Nguyễn. Tôn Thất Bình. Nxb Đà Nẵng, 1996. . 14. Kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX qua hồi ức của Michel Đức Chaigneau Lê Đức Quang – Trần Đình Hằng. Nxb Thuận Hóa
15. Đất nước Việt Nam qua Cửu đỉnh Huế. Dương Phước Thu. Nxb Tri thức, 2011. 16. Húy kỵ và Quốc húy thời Nguyễn. Dương Phước Thu. Nxb Thuận Hóa, 2002. 17. Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn – Nhiều tác giả. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển tuyển chọn, 2002.
18. Kỷ yếu Hội thảo “Bảo tồn và phát huy giá trị Tuồng Cung đình Huế” – Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản năm 2001
19. Kỷ yếu Hội thảo “700 năm Thuận Hóa – Phú Xuân Thừa Thiên Huế” của Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế, 6/2006.
20. Di sản văn hóa Huế – Nghiên cứu và bảo tồn (Kỷ niệm 30 năm thành lập Trung tâm BTDT Cố Đô Huế 1982 – 2012).
21. Quần thể di tích Huế – Di sản thế giới. Nhóm tác giả: Phạm Đức Thành Dũng, Trần Đức Anh Sơn, Huỳnh Thị Thanh Vân – chủ biên Thái Công Nguyên – Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản năm 1999.
Nguồn khamphaisan.com.vn