239 lượt xem

TÔN ĐẢN - KỲ 1

Bàn về nhân vật Tông Đản
 

https://mytourguide.com.vn/images/minh-minh/ton-dan.png

Quân nỏ thủ người Mông (Miao) - Nhân đọc sách Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của tác giả Hoàng Xuân Hãn. Nguồn: Sưu tập

Sách Cương mục chép:

“Ất Mão, năm thứ 4 [1075] Tháng 11, mùa đông. Sai bọn Lý Thường Kiệt đem đại binh sang đánh nhà Tống, phá được Khâm Châu và Liêm Châu. Nhà Tống từ khi Vương An Thạch lên cầm quyền, thường muốn lập công ở ngoài biên giới. Tiêu Chú tri châu Ung, đoán biết ý An Thạch, dâng thư nói Giao Châu dẫu giữ lễ triều cống, nhưng thực vẫn hài lòng, nếu nay bỏ lỡ không đánh lấy đi, chắc sẽ để lo về sau. Vua Tống tin lời, liền xuống chiếu cho Tiêu Chú lo việc ấy. Tiêu Chú lấy làm khó. Gặp bấy giờ có độ chi phán quan làm Trầm Khởi dâng thư nói không có lý gì không thể lấy được Giao Châu. Nhà Tống mới cho Trầm Khởi làm tri châu Quế. Trầm Khởi nhận lĩnh ý chỉ do An Thạch dặn bảo, chuyên để ý tấn công quấy rối nước ta. Khi Trầm Khởi bị bãi, Lưu Di lên thay, biên xét hộ tịch các dân ở khê động, sửa qua thuyền, để mưu sang lấn cướp. Nhà Tống lại nghiêm cấm các châu, các huyện không được mua bán trao đổi với ta. Nhà vua đưa thư sang Tống, thì Lưu Di lại dìm đi. Ngài giận lắm, sai bọn Lý Thường Kiệt, Tôn Đản thống lĩnh hơn 10 vạn quân, chia đường sang đánh Tống. Quân Thường Kiệt đến Khâm Châu, Liêm Châu tấn công và phá được. Quân Tống chết đến tám nghìn người. Bấy giờ Tôn Đản sang đánh Ung Châu, đô giám tỉnh Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu, Thường Kiệt đón đánh ở ải Côn Luân, phá tan được địch, chém Thủ Tiết tại trận.

Lời cẩn án: Sử cũ chép tháng 2 năm ấy, Thường Kiệt sang đánh nhà Tống, phá được Khâm Liêm. Tôn Đản vây Ung Châu hơn 40 ngày, phá được thành, nay theo sử Cương mục tục biên thì tháng 11 mùa đông năm Ất Mão, Giao Chỉ đem đại binh vào lấn cướp, phá Khâm Châu và Liêm Châu. Tháng giêng mùa xuân năm Bính Thìn phá Ung Châu. Như vậy thì việc sang đánh Tống là bắt đầu từ mùa đông năm Ất Mão, việc phá được Khâm Liêm là vào tháng 11, việc phá được Ung Châu là vào tháng giêng năm Bính Thìn. Sử cũ chép lầm, nay xin đính chính.

Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 [1076] Tháng giêng mùa xuân. Tôn Đản phá được thành Ung Châu nhà Tống, giết sạch cả dân trong thành. Tôn Đản vây thành Ung Châu hơn 40 ngày, Tri châu Tô Giam đóng cửa thành cố giữ, đến đây quan quân xếp bao đất sát vào thành làm bậc thang mà leo lên, thành bị hạ. Tô Giam bắt 36 người trong nhà hắn phải chết trước, hắn đem xác vùi cả xuống hố, rồi tự mình chết. Người trong thành cảm phục cao nghĩa của Tô Giam, không một ai chịu đầu hàng. Quan quân giết sạch số dân trong thành, đến hơn 58000 người cộng với số người bị chết ở Khâm Liêm tất cả tới mười vạn. Bọn Thường Kiệt bắt lấy người 3 châu làm tù binh rồi kéo quân về. Việc này lên đến vua Tống, vua Tống truy tặng Tô Giam là Phụng quốc Tiết độ sứ”.

Sách Toàn thư chép:

“Ất Mão [Thái Ninh] năm thứ 4 [1075] Mùa xuân tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học. Vương An Thạch nhà Tống cầm quyền, tâu [với vua Tống] rằng nước ta bị Chiêm Thành đánh phá. Quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với nước ta. Vua biết tin, sai Lý Thường Kiệt, Tông Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân thủy, quân bộ đều tiến. Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm; Đản vây châu Ưng, Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận. Tri Ưng châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân ta đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành. Thành bèn bị hạ. Giám cho gia thuộc 36 người chết trước, chôn xác vào hố, rồi châm lửa tự đốt chết. Người trong thành cảm ân nghĩa của Giám, không một người nào chịu hàng, giết hết hơn 5 vạn 8 nghìn người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 10 vạn. Bọn Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về. Vua Tống truy tặng Giám là Phụng quốc quân tiết độ sứ, thụy là Trung Dũng, cho một khu nhà lớn ở kinh thành, 10 khoảnh ruộng tốt cho thân tộc 7 người làm quan, cho con là Nguyên chức Cáp môn chi hậu.Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhà Tống cho Tô Giám thụy là Trung Dũng cũng đủ nêu rõ sự trung dũng của Lý Thường Kiệt, há có thể xem như hạng Túc Ở Đâu. Mùa thu tháng 8, ngày mồng 1 Canh Dần, nhật thực”.

Sách Việt sử lược chép:

“Năm Giáp Dần [1074] là năm thứ 2. Mùa thu tháng 9 rồng vàng hiện ra. Vương An Thạch nhà Tống cầm quyền chính đem lời tâu với vua Tống, rằng là, nước ta đã bị Chiêm Thành khuấy phá, ngoài ra, dân đông không đầy vạn người, nên có thể theo cái kế trong một ngày là lấy được. Do đó, vua Tống dùng Thấm Khởi và Lưu Di làm Tri châu Quế châu. Thấm Khởi và Lưu Di bèn tụ tập dân đinh trong các khe động tại địa phương làm bảo giáp, lại cho đóng thuyền bè ở bờ biển, giảng dạy về phép đánh dưới nước. Và cấm dân ở các châu huyện không được cùng với dân ta đi lại buôn bán. Nhà vua biết vậy, bèn trước tiên cho xuất phát các đạo binh gồm 10 vạn người, chia làm hai đạo như sau: Sai Nguyễn Thường Kiệt lãnh đạo thủy quân xuất phát từ Vĩnh Yên tiến đến Châu Khâm, châu Liêm. Tôn Đản lãnh đạo lục quân xuất phát từ Vĩnh Bình tiến đánh Châu Ung. Quân ta tiến tới đâu cũng như vào chỗ không người. Nguyễn Thường Kiệt đánh ép hai châu Khâm, Liêm rồi lại cùng với Tôn Đản hợp binh bao vây châu Ung. Quan Giám thủ Quảng Tây của nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem binh đi tiếp cứu. Binh của Trương Thủ Tiết kéo đến cửa ải Côn Lôn thì bị Thường Kiệt đón đánh phải thua to, Thủ Tiết bị giết chết. Quan Tri châu là Tô Giam dựa vào thành trì kiên cố để chống giữ. Quân ta bắc thang mây để leo thành. Quân Tống dùng đuốc mà đốt nên không thể bắc gần được. Ta lại dùng tên độc mà bắn, người ngựa trên thành chết nằm gối lên nhau. Quân Tống dùng thần tý (một loại nỏ) ra bắn. Voi và quân sĩ của ta có nhiều người bị chết. Thành cao và cứng, đánh phá hơn 40 ngày không hạ được. Quan quân ta bắt dân Tống, sai lấy túi đất đắp vào chân thành để leo lên. Thường Kiệt theo đó mà lên đánh, thành bị hãm hại. Tô Giam chạy về nhà ở trong châu, trước hết giết hết người nhà của ông gồm 36 người, sau phóng mình vào trong lửa để tự thiêu. Quân sĩ ta tìm Tô Giam không được bèn giết hết quan dân trong thành hơn 5 vạn người. Chiến dịch đó giết hại dân ở ba châu Ung, Khâm và Liêm đến 10 vạn”.

* Có 2 điểm cần xét:

Thứ nhất là lời cẩn án trong sách Cương mục có chép rằng sử cũ lầm.

Đoạn văn mô tả cuộc tấn công của nhà Lý vào 3 châu Ung Khâm Liêm trong sách Cương mục rất giống với sách Toàn thư. Vậy thì sử cũ được nhắc đến khả năng cao là sách Toàn thư. Xem bố cục đoạn chép năm 1075 trong sách Toàn thư thì thấy rằng việc khẳng định sách Toàn thư chép cuộc tấn công diễn ra vào tháng 2 mùa xuân chưa hẳn đã đúng vì thời gian tháng 2 mùa xuân sách Toàn thư dùng để chép sự kiện liên quan đến Lê Văn Thịnh, nhưng chắc chắn là sự tấn công 3 châu của nhà Tống phải diễn ra trước mùa thu tháng 8.

Trong trường hợp của sách Toàn thư chúng ta có thể hiểu, tác giả Ngô Sĩ Liên đã chép gộp 2 sự kiện, Thường Kiệt tấn công Khâm Liên và Tông Đản vây Ung Châu. Nhưng quan sát sẽ thấy rằng, các sách sử càng gần với sự kiện thì chép thời gian nhà Lý tấn công 3 châu càng xa về trước Thế nhưng sách Cương mục dẫn sách Cương mục tục biên của Trung Quốc chép rất rõ là thời điểm nhà Lý tấn công 3 châu từ tháng 11/1075 đến tháng 1/1076. Vậy sách Toàn thư chép sai ?

Văn bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc chép:

“Nghiêm khảo vào năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh 1075 sửa soạn vương sư, đánh lên ải bắc, vây thành Ung cho hả giận, bắt võ tướng dâng tù binh. Bởi vậy được ban thưởng chức Hữu đại liêu ban Đoàn luyện sứ, cấy cày theo phép tỉnh điền, thóc lụa chất cao tựa núi, khách khứa đông đục 3 nghìn, cửa nhà nhộn nhịp như phố chợ”.

Vậy là họ Hà châu Vị Long cũng tham gia cuộc tấn công 3 châu nhà Tống, số lượng quân tham gia khoảng 3 ngàn người. Rõ ràng trận đánh lớn như vậy lại có sự tham gia của rất nhiều người ở các châu quận khác nhau thì phải được chuẩn bị kỹ càng. Nên thời điểm chép trong sách Toàn thư rất có thể là thời gian vua Lý chiêu dụ chuẩn bị lương thảo quân nhu để đánh Tống, chứ không phải thời gian giao chiến.

Thứ hai  là không khó để nhận ra vai trò của Tông Đản được các sách sử gia thêm, sách Việt sử lược chép rằng Thường Kiệt dẫn thuỷ quân tấn công châu Khâm và Liêm, Tông Đản xuất quân từ Vĩnh Bình tiến đánh Ung Châu, sau khi Thường Kiệt hạ 2 châu thì tiến về Ung Châu hợp binh với Tông Đản hạ thành Ung Châu. Theo như đó thì Tông Đản chỉ có khả năng cầm chân quân Tống ở Ung Châu để không thể cứu viện 2 châu Khâm và Liêm. Trong khi như sách Cương mục chép thì người hạ thành Ung Châu là Tôn Đản chứ không phải Thường Kiệt.

Sách của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn chép:

“Hai đạo quân ấy có từ sáu vạn đến mười vạn. Lý Thường-Kiệt lĩnh thủy quân, từ Vĩnh-An đánh vào ven bể Quảng-Đông (Việt sử lược). Đó là đại quân. Còn các quân từ biên giới miền tây Quảng-Tây kéo vào có Tông Đản quản lĩnh (Toàn thư). Tông Đản là ai? Sử ta không hề nói đến, ngoài việc cầm quân đánh thành Ung lần này. Tống-sử và Tống-thư cũng không đâu nói đến. Nhưng sách Tục tư trị thông giám trường biên (TB) và các sách Tống, như Tống Sử quyển 488, Tống sử quyển 495 có chép tên Nùng Tông-Đán, người châu Quảng-Nguyên. Ta đã thấy Nùng Tông-Đán đã theo Tống rồi bỏ Tống nhiều lần (xem mục V/8 sách của Giáo sư Hoàng). Tháng 6 năm Bính-Thìn (1076) ti An - Nam tuyên-phủ tâu rằng: “Đã sai đô-giám Quế-Châu là Nùng Tông-Đán kiểm điểm đinh tráng Hữu-Giang, để đánh Lưu Kỷ”. Vua bảo: “Tuy Tông-Đán đã hiệu-thuận và là kẻ dũng mạnh, nhưng các con còn theo Lưu Kỷ. Ta sợ Tông-Đán cũng theo nốt. Vậy nên chọn các viên có mưu lược đi theo Tông-Đán” (TB 276/1b).Có lẽ Tông Đản ở sử ta là Nùng Tông-Đán ấy hoặc là một con y. Chữ Nùng dùng đầu tiên có thể chỉ giống người Nùng mà thôi chứ không phải hẳn là chỉ họ. Vì sự hai âm Đán và Đản rất gần, hai tên có thể là một chăng? Các quân man động ấy đóng từ Quảng-Nguyên đến châu Tô-Mậu, trước các trại Hoành-Sơn, Thái-Bình, Vĩnh - Bình, Cổ -Vạn, Thiên-Long. Lưu Kỷ cầm quân vùng Quảng-Nguyên. Có lẽ Tông Đản chỉ là một bộ tướng. Vùng Môn-Châu có Hoàng Kim-Mãn, vùng Lạng-Châu có phò mã Thân Cảnh-Phúc và vùng Tô-Mậu có Vi Thủ-An cầm quân: “Đời Trị - Bình (1064 - 1067) Tông-Đán có hiềm khích với tụi Lý Nhật-Tôn (Thánh-Tông) và Lưu Kỷ nên sợ chúng ép bức. Viên coi Quế-Châu là Lục Sằn sai người đến dỗ. Tông-Đán bèn bỏ châu mình mà dời nhà vào nội địa. Vua Tống ban cho chức hữu-thiên-ngưu-vê tướng-quân”.Tống sử quyển 488 (Giao-Chỉ truyện) chép lược hơn nhưng cũng phù hợp với trên: Năm đầu niên-hiệu Trị-Bình (1064) Giao-Chỉ đòi lại Nùng Tôn-Đán và con là Nhật-Tân, với đất hai động Ôn-Mẫn. Hàn Kỳ bàn với vua Tống nên trả lại (xem mục V8 sách của Giáo sư Hoàng).TB 349/6a chép: Tông-Đán nộp đất Vật-Ác; Tống đổi ra châu Thuận-An.Trong trận Ung-Châu, Nùng Nhật-Tân bị chết nên được vua Tống tặng cho chức giám-áp Ung-Châu. Còn Tông-Đán vẫn theo Tống. Nhưng vua Tống cũng không tin lắm. Những việc trên, tuy làm cho ta không tin chắc rằng Nùng Tông-Đán đã theo Lý đánh Ung-Châu, nhưng cũng không đủ để bác thuyết ấy. Sau khi quân Thường-Kiệt rút về và đại quân Tống tới, có nhiều tù trưởng trước là tướng theo Lý, bấy giờ lại theo Tống, như Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn”.

* Dựa vào 2 bằng chứng là: âm Đản và âm Đán rất gần và Nùng Tông Đán nhiều lần theo Tống rồi bỏ Tống nền Giáo sư Hoàng đặt giả thuyết Nùng Tông Đán trong sử phương bắc có thể là Tông Đản trong sử phương nam. Tuy nhiên con trai của Nùng Tông Đán là Nùng Nhật Tân chết trong trận Ung Châu nên được vua Tống tặng cho chức giám áp Ung Châu vào tháng 2/1076 (Tục tư trị thông giám trường biên). Thêm nữa tháng 6/1076 ti An Nam tuyên phủ đã sai Nùng Tông Đán kiểm điểm đinh tráng để đánh Lưu Kỷ. Rõ ràng là lúc xung đột xảy ra, Nùng Nhật Tân đứng về phía nhà Tống, rồi vài tháng sau Nùng Tông Đán được lệnh của nhà Tống, chuẩn bị quân lương đánh phương nam. Vậy thì khả năng rất cao Nùng Tông Đán theo Tống lúc xảy ra xung đột. Lại thêm, Tống triều biết rất rõ về Nùng Tông Đán và các sự kiện xảy ra liên quan tới xung đột Tống Việt thì không có lý gì Tống triều không biết chuyện Nùng Tông Đán làm phản, nhưng chẳng thấy sử nào ghi chép, cuối cùng nếu Tông Đản là người dẫn đội quân đánh châu Ung, giết tới 58000 người, thì nhà Tống có chấp nhận Tông Đản không ? Nói cách khác, nhà Tống có tin vào việc đầu hàng của giặc vừa tấn công thành quách của nhà Tống ? Trong khi sự nghi ngờ Tông Đán của triều đình phương bắc thể hiện rất rõ khi vua Tống nói tuy Tông Đán Đã hiếu thuận nhưng các con còn theo Lưu Kỷ, sợ Đán cũng theo nốt. Tôi cho rằng Tông Đản không phải là Nùng Tông Đán. Rất có thể Giáo sư Hoàng cũng nhận thấy điều này nên Giáo sư có viết thêm “hoặc là một con của y”.

* Trong trận chiến Tống Việt xuất hiện rất nhiều các nhân vật, tuy nhiên sách sử phương nam chép rất hạn chế các nhân vật này. Có 2 nhân vật được nhắc tới là Lý Thường Kiệt và Tông Đản. Qua những ghi chép chúng ta thấy 2 vị này mỗi người dẫn 1 đạo quân tấn công vào đất Tống. Vậy thì Tông Đản hẳn phải là 1 nhân vật tầm cỡ mới được giữ trọng trách lớn như vậy, chứ không thể nào là kẻ vô danh tiểu tốt. Trừ khi đó có thể là người nội gián, người am tường địa thế đất Tống, dẫn quân Lý vào tấn công thành Ung Châu.

Bức thư của Từ Bá Tường là bằng cớ cho khả năng quân Lý có nội gián. Sách của Giáo sư Hoàng viết:

“Ngày 12 tháng 4, vua Tống hạ chiếu, nói: “Nghe Giao-Chỉ sai nhiều kẻ gian tới thám Lưỡng-Quảng. Vậy các chỉ huy, các tướng phải coi chừng. Đừng để nó dò được phép công, thủ, tiến, thoái của ta”. Nhưng ở sâu trong đất Tống, cũng còn một vài động không chịu theo. Như ở Hữu-Giang, tụi thủ-lĩnh Thiệu-Châu là Dương Tiên-Tiềm và Tiên-Hàm đều nói rằng nếu quân Tống tới đó thì chúng đánh lại. Muốn cho khỏi chậm việc tiến quân và muốn tránh sự chúng vì bị áp-bức quá sẽ giao-kết với Giao-chỉ rồi đe dọa vùng Tương Đàm, vua Tống bảo: “Nên để yên nếu chúng có phản thì mới đánh chứ đừng lưu đại-quân lại đó, kẻo chậm việc nam-thảo”

Việc tấn công vào đất Tống cần người dẫn đường, đây là lý do để Tông Đán dẫu chỉ là một “bộ tướng” có cơ hội để nắm giữ vai trò là người dẫn quân lục đạo tấn công thành Ung Châu. Thế nhưng lý do này không đủ mạnh để xác nhận Nùng Tông Đán là Tông Đản.

Việc Tông Đản có thể là 1 trong những người con của Nùng Tông Đán lại càng khó. Các sách sử phương bắc chép Tông Đán là 宗旦 và các sách sử phương nam chép Tông Đản là 宗亶.

* Trong bài viết Vì sao Lý Thường Kiệt trở thành hoạn quan của tác giả Đinh Ngọc Thu có 1 đoạn chú về Tôn Đản như sau:

“tướng cùng với Lý Thường Kiệt chỉ huy các trận vượt qua biên giới đánh các châu của Tống nhằm ngăn chặn kế hoạch xâm lược quân Tống. Mặc dù có công lớn với đất nước nhưng cả đời ông chưa từng nhận chức tước hoặc bổng lộc của triều Lý. Tôn Đản không phải là Nùng Tông Đán, người đứng đầu các châu mục bắc biên, như một số sách lầm tưởng. Tôn Đản lớn hơn Nùng Tông Đán khoảng 40 tuổi và là con của Tôn Trung Luận, còn Nùng Tông Đán là con của Nùng Tồn Thương. Nùng Tông Đán đã từng bỏ ta theo Tống”.

Tuy nhiên không thấy tác giả Đinh Ngọc Thu dẫn nguồn tài liệu ? Và khi tra soát cũng không thấy sách sử chép về nhân vật Tôn Trung Luận. Cũng thật kỳ lạ, khi 1 nhân vật tầm cỡ như Tông Đản lại chỉ được ghi chép có 1 lần trong sách sử. Với công lao dẫn đạo lục quân, vây thành Ung Châu thì hẳn Tông Đản phải được ban thưởng rất hậu và giữ chức vụ rất lớn trong triều đình mới phải ?

Ngay như vị họ Hà châu Vị Long, sau cuộc tấn công 3 châu cũng được phong chức Hữu đại liêu ban Đoàn luyện sứ ? Rồi trong lần quân Tống tiến vào đất Việt không thấy sách sử nhắc tới Tông Đản. Thường Kiệt là nguyên soái thì hẳn rồi, nhưng Tông Đản chí ít cùng phải giữ chức gì đó trong cuộc kháng Tống. Tông Đản không được nhắc đến?

Hay là Tông Đản đã tử trận trong lần vây châu Ung ? Vì cuộc tấn công ấy quân Lý phải vây tới 40 ngày và gặp phải rất nhiều khó khăn mới hạ được thành Ung Châu ?

Sách Việt sử lược chép:

“Năm Bính Thìn[1076] là năm Thái Ninh thứ 4. Mùa thu tháng 7 nhà Tống sai quan Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ và Triệu Cao làm Chiêu thảo sứ tập hợp chín vị tướng quân kéo binh sang đánh nước ta. Nhà vua sai Nguyễn Thường Kiệt lãnh đạo thuỷ quân chống cự lại. Hai vị quan hầu tước là Chiêu Văn và Hoằng Chân đều bị chết chìm ở sông Như Nguyệt”.

Sách Toàn thư không chép đến 2 nhân vật Chiêu Văn và Hoằng Chân. Hoằng Chân có tự dạng 宏真. Có khi nào dễ lẫn với Tông Đản (宗亶) không ?

Còn nữa

Nguồn: nghiencuulichsu.com