281 lượt xem

Tuệ Tĩnh

Thiền sư Tuệ Tĩnh: ông Tổ nghề thuốc Nam

Tuệ Tĩnh, tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, còn có biệt hiệu là Tráng Tử Vô Dật, quê ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là tỉnh Hải Dương)

Ông mô côi mẹ từ lúc 6 tuổi và được các sư tại chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi ăn học. Năm Tân Mão 1351, niên hiệu Thiệu Phong thứ 10, đời vua Trần Dụ Tông, lúc đó mới 22 tuổi, Tuệ Tĩnh thi đậu Đệ nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng Giáp, nhưng không ra làm quan mà đi tu tại chùa và lấy pháp danh là Tuệ Tĩnh. Trong thời gian đi tu, ông chuyên tâm nghiên cứu y học cổ truyền, làm thuốc chữa bệnh cứu người. Vốn tư chất thông minh từ nhỏ, lại ham học hỏi, Tuệ Tĩnh đã chú tâm tìm hiểu về nghề thuốc như: cách trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ. Vào năm 1385, Tuệ Tĩnh 55 tuổi, với kiến thức uyên bác về y dược của mình, lúc đó Tuệ Tĩnh đang là một danh y khá nổi tiếng, ông bị cống sang chữa bệnh cho Vua và Hoàng hậu nhà Minh.

 
Chân dung Thiền sư Tuệ Tĩnh. Nguồn: Sưu tập

 Xa quê, nhưng ông vẫn dồn tâm sức cho việc nghiên cứu y học và làm thuốc. Ông được vua Minh phong là Đại y Thiền sư sau khi cứu sống Hoàng Hậu nhà Minh lúc đó thoát khỏi căn bệnh hậu sản mà các danh y nhà Minh và người Nhật đều bó tay. Từ ngày sang phương Bắc, ông không một lần được quay lại quê hương. Sống ở nơi đất khách quê người nên hậu thế chỉ biết ông qua đời tại Giang Nam, Trung Quốc nhưng không rõ năm nào.

Tuệ Tĩnh trong thời gian tại Phương Bắc vẫn luôn nhớ và mong muốn được trở về cố hương. Chính vì vậy trên bia mộ ông có dòng chữ “Ai về nước Nam cho tôi về với” thể hiện tâm nguyện của người con nước Nam xa xứ, dù mất rồi vẫn mong muốn được trở về cố hương.

Tác phẩm của Tuệ Tĩnh để lại cho đời là: sách “Hồng nghĩa giác tư y thư”, gồm 2 quyển nói về 13 phương thuốc gia giảm và 37 phương trị bệnh thương hàn. Sách “Nam dược thần diệu”, gồm 11 quyển nói về dược tính của 580 vị thuốc Nam, 10 khoa và 3.873 phương thuốc điều trị 184 loại bệnh. Hai bộ sách quý trên được Nhà xuất bản Y học (Hà Nội) in bằng tiếng Việt năm 1960, phòng huấn luyện Viện Nghiên cứu Đông Y phiên dịch theo chủ trương của Bộ Y tế. Đến nay, sách “Toàn tập Tuệ Tĩnh” dày 600 trang đã được tái bản nhiều lần phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và thực hành chữa bệnh bằng thuốc Nam ở trong nước. Ông được cho là người sáng lập (hay còn gọi là ông Tổ nghề thuốc Nam), về sau Hải Thượng Lãn Ông là người tuyên truyền thực hiện có hiệu quả cao về nghề thuốc dân tộc này.

Theo GS Vũ Ngọc Khánh : “Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nên quả thực tác phẩm của Tuệ Tĩnh không những có vị trí trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học nữa”. (Báo Nhân Dân, ngày 5-3-2004)

Hơn 200 năm sau, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho là người cùng làng với Tuệ Tĩnh, khi ông đi sứ Trung Quốc đã đến viếng mộ Tuệ Tĩnh tại Giang Nam. Đọc mặt sau tấm bia trên mộ thấy có ghi chữ "Về sau có ai bên nước sang, nhớ cho hài cốt tôi về với", Nguyễn Danh Nho vô cùng xúc động trước tình cảm luôn hướng về quê hương đất nước của Tuệ Tĩnh. Tiến sĩ đã thuê thợ làm lại tấm bia, soạn khắc lại ước nguyện của người Danh y tài ba Tuệ Tĩnh và mang về quê hương.

Khi đó cả vùng quê thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ của ông bị ngập nước. Xuôi thuyền gần đến nơi thì thuyền bị lật, tấm bia rơi xuống nước không lấy lên được. Những tưởng công sức bị bỏ sông bỏ biển thì không lâu sau khi nước sông cạn, nhân dân lại tìm thấy bia. Thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu (dao thái thuốc Nam) người dân đã dựng miếu thờ bia. Ngôi miếu đơn sơ dựng thờ tấm bia đá chỉ cách quê hương Tuệ Tĩnh khoảng hơn 1km.

Dân gian kể lại: Từ ngày dựng bia, người dân khắp nơi kéo về lấy thuốc, hái lá và xin nước ở đền Bia chữa bệnh. Mỗi ngày có hàng nghìn người đến đền xin thuốc. Năm 1846, vua Thiệu Trị đã hạ chiếu cấm việc cúng bái và xin thuốc mang màu sắc mê tín. Nhà vua đã sai lính mang tấm bia cất giữ trong kho. Đến năm 1936, có một người làng Văn Thai làm chức thủ kho đã lấy lại tấm bia bí mật đem về đền. Từ đó người dân tứ xứ lại trở lại đền xin thuốc. Tin đồn lại đến tai vua, nhà vua sai lính đục hết chữ khắc tạc trên tấm bia làm cho không ai còn đọc được nữa.

Theo các cụ cao niên trong làng: Để cất giấu tấm bia đá này, người dân làng Văn Thai đã đặt trong tường chùa Văn Thai rồi xây kín lại. Nhờ đó mà tấm bia tồn tại được cho đến ngày hôm nay. Người dân ở đây tin rằng: Chính cái doi đất hình lưỡi dao cầu (dao cắt thuốc) mà thiên nhiên tạo nên là vùng đất đắc địa cũng là nơi Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh muốn tấm bia khắc di nguyện của mình dừng chân.

Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: "Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt" biểu hiện sự nhận thức sâu sắc về quan hệ giữa con người và sinh cảnh, đồng thời cũng tiêu biểu cho ý thức độc lập tự chủ. Ngay trong việc nghiên cứu dược liệu, ông cũng không chịu phụ thuộc vào cách sắp xếp của những sách nước ngoài. Chẳng hạn, ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông..v.v.. Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ: Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần. Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình. Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc. Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh thuốc Việt Nam, ông Tổ nghề thuốc Nam.


Toàn cảnh Đền Bia thờ Thiền sư Tuệ Tĩnh tại Cẩm Giàng, Hải Dương. Nguồn: Sưu tập

Tại Hải Dương, có ngôi Đền Bia dựng lên để thờ Thiền sư Tuệ Tĩnh ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm Giàng. Câu đối thờ ông ở đền Bia viết, dịch nghĩa như sau: Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang.

Ngôi đền này được xây dựng từ thời Lê, trùng tu vào các năm 1936, 2007. Đền Bia gồm ba tòa; Tiền tế, Nhị đệ và Hậu cung theo lối kiến trúc tiền nhất hậu đinh. Ở Hậu cung, trong khám thờ tượng Tuệ Tĩnh, đó là một bức tượng đúc bằng đồng ngồi trên ngai nhỏ, đầu đội khay, mắt sáng, râu dài, hai tay chắp trước ngực, mặc áo thêu hình rồng. Theo sử sách trong chùa viết lại thì bức tượng này do nhân dân trong làng Văn Thai tự tay đúc để thờ từ những ngày đầu xây dựng đền. Thông thường trong các chùa có thờ tượng của các sư trụ trì cao tăng đắc đạo, tư thế tượng được tạc ngồi xếp bằng hoa sen, hai tay xếp trong trong lòng theo kiểu ấn tam muội (ấn thiền định), hoặc hai tay đặt trên đầu gối. Nhưng tượng của Đại y Thiền sư Tuệ tĩnh lại được tạc theo tư thế ngồi trên ghế, lưng thẳng và hai tay xếp trước ngực theo kiểu ấn Chuẩn đề (Cundhe). Điều đó chứng tỏ người xưa đã đặt vị trí của Thiền sư là một Bồ Tát hóa thân của Chuẩn đề vương Bồ Tát.


Tượng Thiền sư Tuệ Tĩnh bằng đồng tại Đền Bia. Nguồn: Sưu tập

Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành hoàng ở xã Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng (có sắc phong là Thượng thượng đẳng phúc thần năm 1572, theo thần phả do Nguyễn Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn).

Nguồn: Caythuocquy.info.vn