360 lượt xem

Chùa Thiên Mụ

Chùa Thiên mụ là một trong những ngôi chùa cổ nhất và nổi tiếng nhất ở vùng đất Huế. Truyền thuyết kể rằng: chúa Nguyễn Hoàng trong một lần đi kinh lý về phía Nam, vùng đất ông cai quản, ông đã dừng chân trên một ngọn đồi, thấy cảnh trí đẹp và huyền bí nên đã cho gọi người dân địa phương đến thăm hỏi. Người dân cho biết: đây là đồi Hà Khê thuộc làng An Ninh, hằng đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục hiện lên và dạy với dân chúng: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để bền long mạch và tụ long khí cho nước Nam hùng mạnh”, vì thế ngọn đồi Hà Khê được người dân nơi đây gọi là Thiên Mụ sơn.



Sau khi nghe xong câu chuyện, chúa Nguyễn Hoàng đã nhận mình là vị chân chúa và xem xét địa cuộc của vùng đất. Thấy phía trước là dòng sông Hương thơ mộng núi non chầu về, đằng sau có hồ lớn nhưng có đoạn hào cắt ngang điềm gỡ không lành, dân chúng địa phương lại cho biết truyền thuyết: (có thầy địa lý Cao Biền đời nhà Đường bên Trung Hoa đã từng cởi diều sang đây để yểm trừ long mạch, cắt đứt vượng khí không còn sinh ra người tài cho nước Việt).



Sau đó, chúa Nguyễn Hoàng đã cho phá uyểm dựng chùa vào năm 1601 để nhớ ơn bà chúa Trời và đặt tên là Thiên Mụ tự. Từ đó về sau các chúa Nguyễn và vua Nguyễn đều xem đây là ngôi Quốc tự, thường xuyên chăm lo tu bổ, tôn tạo và xây thêm nhiều công trình kiến trúc làm cho diện mạo ngôi chùa ngày càng phong phú hơn nhưng vẫn luôn luôn mang đậm nét thiền. Dưới thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), chúa giao cho Chưởng cơ Tổng Đức Đại đứng ra trông coi công việc tu bổ chùa và cho dựng thêm nhiều đình viện, nhà cửa…rồi cho người sang Trung Hoa thỉnh hơn 1000 bộ kinh sách Phật giáo về lưu giữ ở lầu Tàng kinh trong chùa. Trong thời gian quân Trịnh vào chiếm cứ Phú Xuân (1775-1786), chùa Thiên Mụ bị chiến tranh tàn phá và xuống cấp nghiêm trọng. Bấy giờ có hai ông quan nhà Trịnh (Bùi Huy Bích và Trương Đăng Qùy) đến vãng cảnh thấy chùa hoang phế đã ghi lại tình trạng hư hỏng của chùa trong 02 câu thơ sau:
“Nguyễn gia thất thế bài không tại Tăng xá thiên gian, ngõa bán linh”
Nghĩa là: ( Bài vị bảy đời họ Nguyễn còn đây/Tăng xá ngàn năm ngói trụt nửa phần). Dưới triều đại nhà Tây Sơn (1786- 1801), chùa lại bị binh hỏa tàn phá. Đến thời hai vị vua đầu của triều Nguyễn (Gia Long và Minh Mạng) chùa được trùng tu nhiều lần và trở nên khang trang hơn. Tuy nhiên, một cơn bão lớn vào năm 1904 (thường gọi là bão năm Thìn) đã làm cho nhiều công trình kiến trúc trong chùa bị hư hỏng nặng, trong đó có một số công trình hư hại quá trầm trọng nên phải triệt giải. Đến năm 1957, chùa được trùng tu một lần nữa, thời kỳ này một số bộ phận kiến trúc như: cột kèo, đòn tay, khám thờ được thay bằng bê tông giả gỗ.



Chùa Thiên Mụ được xây trên ngọn đồi có hình chữ nhật (76m x 313m) chạy dài theo hướng Bắc – Tây Bắc, Nam – Đông Nam. Về tổng thể kiến trúc, chùa được bao bọc bởi một vòng la thành xây bằng đá và gạch mang hình dáng như một con rùa. Bước vào chùa hai bên là 04 cột trụ sừng sững và uy nghi, phía trước là bảo tháp Phước Duyên.



Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m, gồm 07 tầng được xây dựng vào năm 1844. Ban đầu tháp có tên là Từ Nhân sau đổi thành Phước Duyên. Lối vào bảo tháp là hai cánh cửa đồng, bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, ở trong mỗi tầng đều có xây một bàn thờ đặt tượng Phật; 07 vị Phật thờ trong tháp được gọi là “quá khứ thất Phật”: – Tầng thứ nhất thờ: Phật Quá Khứ Tỳ Bà Thi (Vipassi) – Tầng thứ hai thờ: Phật Thi Khí (Sikkhi) – Tầng thứ ba thờ: Phật Tỳ Xá Phù (Vessabhu) – Tầng thứ tư thờ: Phật Câu Lưu Tôn (Kakusandha) – Tầng thứ năm thờ: Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Konagamana) – Tầng thứ sáu thờ: Phật Ca Diếp (Kassapa) – Tầng thứ bảy thờ: Trung Thiên Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật (Sakkamuni) Tháp Phước Duyên đã trở thành biểu tượng cho tinh thần, tình cảm của con người và văn hóa Huế, hình ảnh bảo tháp đã được người dân Huế sử dụng làm biểu tượng trong một số sản phẩm truyền thống của địa phương. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, nơi dừng chân để nhà vua tĩnh túc trước khi vào lễ chùa (nay chỉ còn lại nền móng của công trình). 



Sau trận bão năm Thìn (1904), kiến trúc đình Hương Nguyện được đưa vào đặt trên nền điện Địa Tạng. Ở hai bên đình có hai nhà tứ giác, nhà bia bên trái (phía Đông) nói về về việc xây dựng ngôi bảo tháp phước Duyên, gọi là bia “Ngự chế Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi”, nhà bia bên phải (phía Tây) khắc 08 bàì thơ của vua Thiệu Trị và nhà vua đã xếp chùa Thiên Mụ là thắng cảnh thứ 14 trong “ Thần Kinh Nhị Thập Cảnh”. Hai bên tháp Phước Duyên có hai nhà lục giác xây theo dạng cổ lâu.



Nhà bia bên trái (phía Đông) đặt tấm bia dựng trên lưng một con rùa bằng cẩm thạch trắng, khắc bài văn của Chúa Nguyễn Phúc Chu nói về việc xây dựng chùa.



Nhà bên phải (phía Tây) đặt một chiếc chuông lớn, gọi là“ Đại Hồng Chung” được Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc vào năm 1710, trên chông khắc bài minh của chúa chú nguyện “Mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an”. Những họa tiết trang trí trên chuông rất phong phú, tinh xảo với trình độ mỹ thuật cao. Những hoa văn cành lá, mô típ long phụng được mô tả sinh động. Quanh thân chuông khắc 08 chữ “Thọ” được viết bằng nhiều cách khác nhau. Chuông cao 2,5m, đường kính miệng 1,4m và nặng trên 02 tấn, là một chiếc chuông lớn nhất của Kinh đô thời bấy giờ. Đặc biệt tiếng chuông ngân xa, vang xa; vì vậy trong dân gian có lưu truyền câu ca về tiếng chuông chùa:
“ Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”



Năm 2013 Đại Hồng Chung được công nhận là bảo vật quốc gia, nó là một vinh dự nhưng vừa đặt ra cho chính quyền địa phương nhiệm vụ năng nề hơn trong công tác bảo tồn và bảo vệ cổ vật. Phía sau tháp Phước Duyên còn có hai tấm bia đá dựng lộ thiên, bia nhỏ đặt ở gần đế tháp Phước Duyên, nội dung ghi lại việc vua Thành Thái cho đại trùng tu tháp năm 1899; tấm bia lớn được dựng vào năm 1920 khắc bài thơ của vua Khải Định làm nhân một dịp viếng cảnh chùa.



Cổng tam quan là cửa chính để đi vào lễ chùa, cửa có kết cấu hai tầng, ở lối đi giữa có treo bức hoành phi bằng gỗ sơn son có tên “Linh Mụ Tự’, bức hoành phi này được treo dưới thời vua Tự Đức thay cho tấm hoành phi “ Thiên Mụ Tự”. Vua Tụ Đức cho rằng đã có điều gì đó thất kính đối với “Trời”, nên nhà vua đã ban bố sắc lệnh những địa danh nào có từ “Thiên” thì phải nên đổi.



Mãi đến năm 1869 nhà vua mới cho dùng lại tên Thiên Mụ như trước. Từ đó trong dân gian mọi người vẫn dùng cả hai tên khi nhắc đến ngôi chùa này. Cửa bên trái đề ba chữ “Đại Từ Bi”, cửa bên phải đề ba chữ “Đại Trí Tuệ”, ở mỗi lối đi hai bên đều có đắp 02 tượng Hộ Pháp làm bằng đất sét và trấu, cốt làm bằng mây và tre, thường được gọi là “Thập nhị tướng quân Dược xoa”, mỗi pho tượng mang một nét mặt khác nhau, dáng điệu khác nhau.

Tầng trên cửa tam quan đặt tượng Ngọc Hoàng Thượng đế và ngài Hộ Pháp, hai bên còn thiết kế lầu chuông, lầu trống có từ thời vua Gia Long. Bước qua khỏi cửa tam quan là mộtsân rộng, hai bên có 02 nhà Lôi Gia, bên trong đặt các tượng Hộ pháp. Tượng được đắp bằng đất sét và tô màu ngũ sắc với những đường nét sinh động, sắc tướng khác nhau. Ba lối đi vào điện Đại Hùng được trồng những hàng cây tùng bút xanh biếc, tạo nên một không gian thuần khiết tịnh tâm tự tại. Điện Đại Hùng nằm ở vị trí trung tâm của khuôn viên chùa, điện Đại Hùng là một tòa “nhà kép”, tiền doanh có 05 gian 02 chái, chính doanh 03 gian 02 chái.

Chính giữa nóc tiền đường trang trí Pháp luân; trên nóc chính đường hai bên trang trí hai con rồng uốn lượn chầu vào một mặt trời ở giữa với 07 ngọn lửa vươn lên tạo thành hình hoa sen hàm tiếu; trong các ô hộc trên các liên ba, đố bản là những hình vẽ trình bày đề tài hoa lá và hình ảnh kể lại sự tích của Đức Phật từ khi ra đời đến lúc xuất gia và thành đạo. Gian giữa của tiền đường đặt bức tượng Phật Di Lặc lớn đúc bằng đồng, nụ cười của tượng Phật này như đem lại nguồn lạc quan, sự thanh nhàn, sự may mắn và sự hòa hiếu bất tận cho thế gian.

Ngoài pho tượng Di Lặc trong điện Đại Hùng còn lưu giữ hai cổ vật hết sức quý giá, đó là chiếc khánh đồng được đúc vào năm 1677 treo trên giá gỗ có lịch sử hơn ba trăm năm và bức hoành phi đề bốn chữ “Linh Thứu Cao phong” do chính tay Chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng năm 1714. Phía bên trong chính điện cách bài trí thờ phụng uy nghiêm và trang trọng, gian chính giữa bàn thờ đặt trên cao có ba pho tượng đồng lớn, ở giữa là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, bên trái là Đức Phật A Di Đà, bên phải là Đức Phật Di Lặc, cách thờ tự này có ý nghĩa là Tam Thế Phật, biểu tượng cho ba thì: Quá khứ, Hiện tại và Vị lai.



Bàn thờ bên dưới có tượng Phật Thích Ca đang niệm hoa (thuyết pháp). Dưới chân tượng Tam Thế Phật là các pho tượng “Quá khứ thất Phật” được đưa từ bảo tháp Phước Duyên vào thờ tự. Ở gian bên trái có tượng ngài Sư Lợi Văn Phù Bồ Tát cỡi trên lưng một con sư tử có bờm vàng (biểu trưng cho phẩm hạnh đạo đức nhân ái). Ở gian bên phải có tượng ngài Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát an tọa trên đài hoa sen đặt trên lưng con voi trắng (biểu trưng cho trí tuệ hiểu biết sâu xa và quảng bác). Ngoài ra ở hai bên dãy bàn thờ đặt sát vách tường là tượng của 18 vị La Hán và 10 tượng Thập Điện Minh Vương. Đây cũng là không gian để dành cho những vị khách cung kính thành tâm chiêm bái và hướng đến những điều tốt đẹp nhất. Phía sau điện Đại Hùng là bàn thờ Tổ, thể hiện triết lý của người Việt nam “uống nước nhớ nguồn”. Trên bàn thờ thiết đặt long vị của vị Tổ khai sơn chùa được đặt chính giữa và hai bên là bài vị của các vị trụ trì kế tiếp.

Bên trái sau điện Đại Hùng là dãy nhà tăng, đặc biệt nơi đây có trưng bày và bảo quản chiếc xe ô tô cũng như nhiều bức ảnh của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Vào ngày 11 tháng 06 năm 1963 nhằm phản đối sự đàn áp Phật Giáo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm.



Hòa thượng Thích Quảng Đức đã đi trên chiếc xe này từ chùa Ấn Quang đến ngã tư đường Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt, tẩm xăng vào người tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo. Sau khi chính thể độc tài ấy bị lật đổ, chiếc xe đã được chuyển về Huế để làm kỷ niệm (nơi đầu tiên bùng lên ngọn lửa đấu tranh của phong trào Phật giáo Việt Nam.) Đi qua một khoảng sân rộng trang trí nhiều cây cảnh là điện Địa Tạng, nơi thờ Phật Địa Tạng, là vị Phật cứu độ chúng sinh dưới cõi âm ty địa ngục.

Cách một vườn cây gỗ sến là điện Quán Âm, nơi thờ Phật bà Quan Âm và Thập Điện Minh Vương. Hai bên là lối đi bộ nhỏ với những hàng thông xanh mướt cùng vườn hoa, cây cảnh, thiên nhiên và kiến trúc ở đây đã được kết hợp với nhau một cách hài hòa, tại đây cái tôi của mỗi chúng sinh như được tĩnh tâm, những nỗi ưu tư và lo lắng đều như được để lại sau lưng. Cuối khu vườn là bảo tháp, nơi an táng thi hài của vị cố Hoàng thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, là vị sư đã có nhiều cống hiến cho đạo pháp và dân tộc. Về mặt lịch sử chùa Thiên Mụ đã gắn liền với nhà Nguyễn trong một thời gian dài gần 04 thế kỷ (1558-1945), đây là một trong những thời kỳ lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển và trưởng thành của đất nước và dân tộc.

Ngôi chùa còn cho thấy cái triết lý chính trị “cư Nho mộ Thích” của các vua chúa nhà Nguyễn. Về mặt văn hóa nói chung và thẩm mỹ nói riêng, các công trình kiến trúc và các hiện vật đang lưu giữ tại chùa Thiên Mụ là bằng chứng cho bước đi của một ngôi chùa Việt và của một mảng văn hóa Phú Xuân – Huế. Thiên nhiên và kiến trúc của chùa đã được kết hợp với nhau một cách hài hòa, sự hài hòa đạt đến mức hoàn chỉnh. Với sự bảo lưu một số hiện vật lâu đời quý báu của Phật giáo, với các công trình kiến trúc uy nghiêm cổ kính và cùng ngoại cảnh thanh thoát nên thơ, chùa Thiên Mụ là một danh lam thắng cảnh tuyệt vời của Huế, của miền Trung và của cả đất nước. Chùa xứng đáng được xếp vào hàng các di tích tôn giáo và kiến trúc nghệ thuật của Việt Nam và của thế giới.

Nguồn bài viết:  Khám Phá Di Sản tổng hợp