THƯỢNG THÁI THỈ TỔ ĐOÀN VĂN KHÂM (? – 1100)
Đoàn Văn Khâm (chữ Hán: 段文欽; là nhà thơ, danh thần, Thượng thư Bộ công đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128). Ông đỗ Thái học sinh (tương đương Tiến sĩ) trong khoa thi nho học đầu tiên của Việt Nam - khoa thi Minh Kinh Bác Học năm Ất Mão 1075. (Tháng 2 năm Ất Mão (1075), vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Minh Kinh Bác Học và thi Nho học tam trường ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, năm đó Lê Văn Thịnh đỗ đầu - tương đương Trạng nguyên, Đoàn Văn Khâm đỗ thứ 2 - tương đương Bảng nhãn). Ngay sau khi đỗ đại khoa, ông được Vua Lý Nhân Tông bổ nhiệm luôn vào chức Công Bộ Thượng thư năm 1075. Ông là Cao tổ họ Đoàn Việt Nam.
Đoàn Văn Khâm: Là nhà thơ có tư tưởng Thiền học. Ba bài còn lại: "Tặng Quảng Trí thiền sư", "Vãn Quảng Trí thiền sư", "Truy điệu Chân Không thiền sư" bằng chữ Hán chép trong "Hoàng Việt thi tuyển" do Bùi Huy Bích sưu tập cho thấy Đoàn Văn Khâm rất hâm mộ những vị tu hành, nhưng bản thân không lên núi ở ẩn chỉ vì "chót bị cái dây cân đai buộc chặt vào hàng ngũ chim cò" (hàng ngũ quan lại).
1- Tặng Quảng Trí Thiền Sư
Đoàn Văn Khâm (chữ Hán: 段文欽; là nhà thơ, danh thần, Thượng thư Bộ công đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128). Ông đỗ Thái học sinh (tương đương Tiến sĩ) trong khoa thi nho học đầu tiên của Việt Nam - khoa thi Minh Kinh Bác Học năm Ất Mão 1075. (Tháng 2 năm Ất Mão (1075), vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Minh Kinh Bác Học và thi Nho học tam trường ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, năm đó Lê Văn Thịnh đỗ đầu - tương đương Trạng nguyên, Đoàn Văn Khâm đỗ thứ 2 - tương đương Bảng nhãn). Ngay sau khi đỗ đại khoa, ông được Vua Lý Nhân Tông bổ nhiệm luôn vào chức Công Bộ Thượng thư năm 1075. Ông là Cao tổ họ Đoàn Việt Nam.
Đoàn Văn Khâm: Là nhà thơ có tư tưởng Thiền học. Ba bài còn lại: "Tặng Quảng Trí thiền sư", "Vãn Quảng Trí thiền sư", "Truy điệu Chân Không thiền sư" bằng chữ Hán chép trong "Hoàng Việt thi tuyển" do Bùi Huy Bích sưu tập cho thấy Đoàn Văn Khâm rất hâm mộ những vị tu hành, nhưng bản thân không lên núi ở ẩn chỉ vì "chót bị cái dây cân đai buộc chặt vào hàng ngũ chim cò" (hàng ngũ quan lại).
1- Tặng Quảng Trí Thiền Sư
Trụ tích nguy phong bại lục tuần
Mặc cư huyền mộng vấn phù vân.
Ân cần vô kể tham Trừng - Thập
Sách bạn trâm anh tại lộ quần.
Mặc cư huyền mộng vấn phù vân.
Ân cần vô kể tham Trừng - Thập
Sách bạn trâm anh tại lộ quần.
Dịch nghĩa:
Tặng Thiền sư Quảng Trí
Chống gậy Thiếu niên núi cao, rũ sạch bụi trần,
Lặng lẽ trong cảnh mộng ảo, chỉ hỏi áng mây nổi,
(Tôi đây) rất thiết tha nhưng không cách nào theo học được Từng, Thập.
Vì đã trót vướng trâm anh trong bầy cò.
Lặng lẽ trong cảnh mộng ảo, chỉ hỏi áng mây nổi,
(Tôi đây) rất thiết tha nhưng không cách nào theo học được Từng, Thập.
Vì đã trót vướng trâm anh trong bầy cò.
Dịch thơ:
Chống gậy non cao rủ bụi đời
Nằm trong mộng huyễn ngắm mây trôi
Ân cần không cách theo Trừng, Thập
Trót vướng bầy cò lớp mũ đai.
(Ngô Tất Tố dịch)
Nằm trong mộng huyễn ngắm mây trôi
Ân cần không cách theo Trừng, Thập
Trót vướng bầy cò lớp mũ đai.
(Ngô Tất Tố dịch)
2- Vãn Quảng Trí Thiền Sư
Lâm loan bạch thủ đồn kinh thành,
Phất tụ cao sơn viễn cánh hinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu tượng tịch
Hốt văn di lý yểm thiền quynh.
Trai đình u điểu không đề nguyệt,
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh.
Ðạo lũ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thuỷ thị chấn hinh.
Phất tụ cao sơn viễn cánh hinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu tượng tịch
Hốt văn di lý yểm thiền quynh.
Trai đình u điểu không đề nguyệt,
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh.
Ðạo lũ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thuỷ thị chấn hinh.
Dịch thơ:
Viếng Thiền sư Quảng Trí
Lánh chợ vào rừng, tóc bạc phơ,
Non cao rủ áo ngát hương thừa.
Trùm khăn những muốn hầu bên chiếu,
Treo dép đà ne khép cửa chùa.
Trăng dọi sân trai, chim khắc khoải,
Tháp không bia chữ mộ thờ ơ.
Bạn thiền thôi cũng đừng thương xót!
Non nước ngoài am. đó dáng xưa.
(Ngô Tất Tố dịch)
Non cao rủ áo ngát hương thừa.
Trùm khăn những muốn hầu bên chiếu,
Treo dép đà ne khép cửa chùa.
Trăng dọi sân trai, chim khắc khoải,
Tháp không bia chữ mộ thờ ơ.
Bạn thiền thôi cũng đừng thương xót!
Non nước ngoài am. đó dáng xưa.
(Ngô Tất Tố dịch)
Thiền sư Quảng Trí họ Nhan. Năm đầu niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059) sư từ bỏ thế tục đến tham vấn Thiền Lão ở Tiên Du . Nhờ một câu nói của Thầy, sư nhận được yếu chỉ, từ đó dốc sức vào thiền học. Về sau sư trụ trì chùa Quán Ðỉnh núi Không Lộ, kết bạn với tăng Minh Huệ, người đời cho là Hàn Sơn, Thập Ðắc tái thế. Công bộ thượng thư Ðoàn Văn Khâm làm bài thơ trên thương tiếc khi sư quy tịch (khoảng niên hiệu Quảng Hựu 1085-1091)
3. Diệu Chân Không Thiền sư
Hạnh cao triều dã chấn thanh phong
Tích tụ như vân mộ tập long.
Nhân vụ hốt kinh băng tuệ đống
Đạo lâm trường phán yển trinh tùng!
Phần oanh bích thảo thiên tâm tháp,
Thủy trảm thành sơn nhận cậu dung.
Tịch tịch thiển quan thùy cánh khấu,
Kinh qua sầu thính mộ thiên chung.
Tích tụ như vân mộ tập long.
Nhân vụ hốt kinh băng tuệ đống
Đạo lâm trường phán yển trinh tùng!
Phần oanh bích thảo thiên tâm tháp,
Thủy trảm thành sơn nhận cậu dung.
Tịch tịch thiển quan thùy cánh khấu,
Kinh qua sầu thính mộ thiên chung.
Dịch thơ:
Viếng Thiền sư Chân Không
Tiếng lừng ngoại nội với trong triều,
Môn đệ rồng mây quấn quýt theo.
Thương xót nhà nhân cây cột đổ,
Ngậm ngùi vườn đạo gốc tùng xiêu.
Non xanh tưởng thấy chân dung cũ,
Tháp mới bên mồ cỏ biếc leo.
Vắng vẻ cửa thiền ai kẻ gõ,
Qua đây buồn lắm tiếng chuông chiều.
(Đoàn Thăng dịch)
Môn đệ rồng mây quấn quýt theo.
Thương xót nhà nhân cây cột đổ,
Ngậm ngùi vườn đạo gốc tùng xiêu.
Non xanh tưởng thấy chân dung cũ,
Tháp mới bên mồ cỏ biếc leo.
Vắng vẻ cửa thiền ai kẻ gõ,
Qua đây buồn lắm tiếng chuông chiều.
(Đoàn Thăng dịch)
Qua mấy bài thơ còn lại, có thể thấy ông là người hâm mộ đạo phật và cũng là nhà thơ xuất sắc thời bấy giờ.
Căn cứ vào bài Diệu Chân Không Thiền Sư ta có thể đoán chắc được là ông mất sau (năm1100 là năm Thiền Sư Chân Không mất).
Nguồn : http://hodoanvietnam.vn