282 lượt xem

Đào Công Soạn

Đào Công Soạn

Đào Công Soạn là Danh thần đời Lê Thái Tổ (黎太祖; 1428 – 1433), tự Tân Khanh (có sách chép là Bảo Khanh), quê làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.

Khi kháng Minh, ông có phục vụ trong quân đội Bình Định Vương Lê Lợi. Năm Bính Ngọ 1426, vua Lê tuần du Đông Đô, mở khoa thi, ông dự thi và đỗ đầu trong số trúng tuyển tất cả là 32 người. Ông được bổ làm Hoàng môn thị lang, Tham tri chính sự. Rồi đi sứ Minh, về nước thăng làm Thượng thư bộ Hộ.
Năm Kỷ Dậu 1429, ông lại sang nhà Minh cầu phong và tâu về việc tìm con cháu nhà Trần. Xong được bổ làm Đông đạo tham tri.

Năm Ất Mão 1435, ông làm việc ở Viện Thẩm hình, kiêm Thượng thư bộ Lễ. Gặp khi có sứ Minh sang, ông đảm nhận việc ứng tiếp. Rồi lại làm Chánh sứ sang Minh, Xuân năm Bính Thìn 1436. Trước sau 3 lần đi sứ, trong cuộc bang giao Việt - Hoa, ông là nhân vật đóng góp nhiều nhất.

Năm Kỷ Tỵ 1449, ông xin về hưu, Lê Nhân Tông (黎仁宗; 1442–1459)không chấp thuận, giao cho làm Nhập nội đại hành khiển, coi việc ba quán (Nho lâm, Sùng văn và Tú lâm).

Năm Bính Tý 1456, ông đã trên 70 tuổi. Lê Thánh Tông (黎聖宗; 1460–1497),  lại cử ông lên Thái Nguyên xem xét tình hình nơi ấy. Nhưng sau đó ông mất, thọ 78 tuổi.

Phần nhiều luật lệ triều Lê do ông soạn. Tính ông khiêm nhường, cần kiệm, thơ ông thanh tao, bộ Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn còn sao lại ba bài của ông đề là Lão Mai, Trừ tịch cảm hứng, Xuân nhật phong hữu bất ngộ.

Con ông là Đào Dung, cháu là Đào Nghiễm, Đào Phạm đều là bậc nhân tài.

Văn bia

Văn bia Tân khanh Đào Công Soạn tại Nhà Thờ Họ Đào xã Thiện Phiến huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên
 
Do Trạng nguyên Nguyễn Trực (1442) cung soạn, ghi lại công danh, sự nghiệp của Cụ Đào tướng công: Tân Khanh (1381-1458)
 
Bản gốc Bản dịch Tiếng Việt
   Tây Việt Đại hành khiển Công tích Đào huý Công Soạn, Tự Tân Khanh Khoái Lộ Phủ, Tiên Lữ Huyện, Thiện Phiến Xã. Nhân Khảo huý Phủ Tỷ Hoàng Thị Nghinh.    Quan Tây Việt Đại hành khiển Ngài tên là Đào Công Soạn (Hiệu Tân Khanh). Quê Ngài ở xã Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, phụ Khoái Lộ (Khoái Châu). Cha là Đào Công Phủ, Mẹ là Hoàng Thị Nghinh.
   Tân dậu niên Thập nhị nguyệt nhị Thập nhị nhật sinh Công công hảo học hữu chí Trường tao binh biến giản quan hải đạo cận dĩ than miễn tuế.    Ngài sinh ngày 22 tháng 12 năm Tân dậu (1381). Ngài rất hiếu học và có trí lớn. Gặp lúc đất nước tao loạn binh biến phải lẩn tránh bờ song bãi biển mới hòng thoát chết.
   Bính ngọ niên nghinh vương sư Thí dụ Đông Quan Thành bảng văn chung đệ nhất Trừ Trung quốc an Phủ xứ.    Năm Bính ngọ (1426) Nhà Vua mới xưng Vương, yêu cầu làm bài hịch dụ quân Minh đóng trong thành Đông Quan đầu hang về nước, Ngài được Vua chấm đỗ đầu và làm quan Trung quốc an phủ xứ.
   Thời Thuộc quốc sơ đa sự dĩ cung cấp quân hưng an Phủ cảnh nội.    Thời kỳ mới lập quốc còn nhiều khó khăn Ngài cung cấp binh lính giữ yên vùng Hưng Yên.
   Thái Cao Tổ hoàng đế vi Thư Thanh Liêm Công Bình Cần Mẫn.    Thái Tổ cao hoàng đế (Lê Lợi) tặng Ngài sáu chữ: “THANH LIÊM, CÔNG BÌNH, CẦN MẪN”
   Lục tự tứ chi Thuận Thiên mậu Thân nhị nguyệt Thụ Chung Thư Thị Lang cố từ cải hoàng môn.    Tháng hai Mậu thân (1428) Vua Thuận Thiên (Lê Lợi) thăng quan Trung Thư Thị Lang. Ngài không nhận và cải là Hoàng Môn Lang.
   Thập nguyệt hữu sắc văn Thăng đồng Tham nghị chính sự.    Tháng mười có sắc phong Đồng Tham Nghị chính sự.
   Kỷ dậu tam nguyệt Thăng Thái Tử Tân khách.    Tháng ba Kỷ dậu (1429) phong hàm Thái tử Tân khách.
   Thập nguyệt Minh nhân dĩ nhân khẩu chiến khí đẳng sự lai vấn mạnh công nghệ Minh quốc trình tạ. Thời Minh nhân thịnh lộ hiệt vấn công từ giải chi Bỉ nhân gia duyệt cập hoàn Lệnh Thuận tê sắc Thư uý dụ.    Tháng mười nhà Minh đòi hỏi những người bị bắt và chết trận, Vua lại cử Ngài sang nhà Minh trình tạ. Vua Minh nổi giận, sai tra hỏi Ngài. Ngài ôn tồn giải trình, Vua Minh nguôn giận và khen ngợi Ngài. Khi về nước đã nhận được tờ sắc Vua Minh uý dụ Vua Ta.
   Canh tuất thập nguyệt vô Hộ Bộ Thượng Thư Tham chi đông đạo quân dân ba tịch.    Tháng mười Canh tuất (1430), Ngài nhận chức hộ Bộ Thượng Thư tham chi đông đạo quân dân bạ tịch.
   Thập nhị nguyệt khất miễn Thái tử Tân khách. Doãn thỉnh Thiệu bình.    Tháng mười hai, Ngài xin từ chức Thái tử Tân khách. Vua đồng ý.
   Ất mão thập nguyệt Thái Tông Văn hoàng đế thụ chi Thẩm hình viện sự.    Tháng mười Ất mão (1435) thời Vua Thiệu Bình Thái Tông hoàng đế, nhận chức Chí Thẩm hình viện sự.
   Thập nhất nguyệt tiến Thẩm hình viện sử kiêm Lễ Bộ Thượng Thư.    Tháng mười một nhận chức Thẩm hình viện sự kiêm Lễ Bộ Thượng Thư.
   Thập nhị nguyệt Mạnh Vãng Minh quốc tu hảo triệu nhập Lương đài vị viết Ngã quốc phong hiệu vị chính Khanh nghị dĩ vi ngôn sứ hồi Minh quốc quả khiển sứ tê bảo ấn phong vương tước.    Tháng mười hai, Ngài sang sứ giao hảo với nhà Minh. Vua mời Ngài vào Lương đài nói rằng: “Nước nhà phong hiệu chưa chuẩn, khanh liệu lời mà nói”. Khi về, Vua Minh sai sứ giả mang bảo ấn sang phong vương cho Vua Ta.
   Đinh tỵ thăng mân hạ Thị Lang Tham chi bắc đạo quân dân bạ tịch.    Năm Đinh tỵ (1437), thăng Quan môn hạ Thị Lang Tham chi Bắc đạo quân dân bạ tịch.
   Kim Thượng tức vị thăng Ngự sử đại phu. Nhập Thị Kinh duyên. Dĩ quốc tang khánh hội sư dáng chức phục dĩ cự quan nhập Thị kinh diên.    Kim Thượng (Lê Nhân Tông) lên ngôi, thăng Ngài là Ngự sử đại phu nhập thị kinh duyên. Trong lúc có quốc tang, Ngài mở tiệc, bị giáng chức; nhận chức quan cũ nhập thị kinh diên.
   Thái Hoà, giáp tý hựu phụng Bắc sứ hồi gia chính phụng đại phu khinh xa đô uý.    Năm Giáp tý (1444), Vua Thái Hoà (Lê Nhân Tông) lại cử Ngài đi sứ. Khi về được phong Chính phụng đại phu khinh xa đô uý.
   Tân mùi, thăng môn hạ tả dán nghị đại phu chi tam quán sự kiêm chi nhập thị học sinh cận thị kỳ hầu các cục nhập thị kinh diên. Thượng biểu khất chí sĩ bất doãn.    Năm Tân mùi (1451), thăng Môn hạ tả dán nghị đại phu chi tam quán sự kiêm nhập thị học sinh cận thị kỳ hầu các cục nhập thị kinh diên. Ngài dâng sớ xin nghỉ, Vua không nghe.
   Nhâm thân, thăng nhập nội hành khiển thượng thư tả nạp ngôn chi Bắc đạo quân dân bạ tịch hựu khất chí sĩ Diệc bất doãn.    Năm Nhâm thân, thăng Nhập nội hành khiển Thượng Thư tả nạp ngôn chi Bắc đạo quân dân bạ tịch. Ngài xin nghỉ, Vua không nghe.
  Quý dậu kiêm Tham chi từ tụng khất chí sĩ hựu bất doãn.    Năm Quý dậu (1453) kiêm chức Tham chi từ tụng. Ngài lại xin nghỉ, Vua không nghe.
   Diên Ninh, Ất hợi Tiến ngân thanh vinh lộc đại phu nhập nội thị hành khiển Thượng thư tỉnh hữu tư tả tham chí chi tam quán sự nhập thị kinh Diên gia đề cử Nam giao Lễ kiêm đề cử đại giác thần quang tự hộ quân đại chí tự trừ tứ hoằng nhân ngũ thập; đàm nhị nhưng mạnh tổng tài giai lưỡng chiều thực lục.    Đời Vua Diên Ninh (Lê Nhân Tông 1454), năm Ất hợi thăng quan ngân thanh vinh lộc đại phu nhập thị hành khiển thượng thư, tỉnh hữu tư tả tham chí chi tam quán sự nhập thị kinh diên gia đề cử Đại giác thần quang tự hộ quân đại chí cho 50 hoàng nhân hầu cận và hai cái đầm để ăn lộc.
   Mậu dần mạnh chi cống học triệt cức chi tam nhật hồi chiều bất tật nhi tử thọ thất thập hữu bát dư Diên Ninh ngũ niên bát nguyệt nhị thập cửu nhật dã. Tường văn. Thượng vi sai chác Thị tịch khiển chung xứ cập tượng sự kiểm tất chung xứ cập lễ quan Trình Bàn tê tiền thất thập quan điếu mạo sắc hữu tư cụ Lễ dĩ thập nhị nguyệt thập lục nhật phụ tang vu kỳ hương chi Đào Nguyên.    Mậu dần (1458) cử Ngài đi chấm thi, xong việc về Triều nghỉ ba ngày, không bệnh gì mà mất, hưởng thọ bẩy mươi tám tuổi (78 tuổi). Ngài mất ngày 29 tháng tám đời Vua Diên Ninh (Lê Nhân Tông) năm thứ năm (1458). Vua nghe tin lất làm thương tiếc, sai quan trung sứ coi thợ đóng gỗ khâm liệm. Sai quan Trình Bàn đem 70 quan tiền làm lễ viếng và sắc cho quan hữu tư sắm sửa lễ nghi đến ngày mười sáu tháng mười hai đưa về phụ táng tại quê hương sứ Đào Nguyên.
   Thê Trình Thị Hiệu Kim hành niên ngũ thập hữu nhất.
   Tử nam tứ:   Viết Nhược Dung ngự tiền học sinh cục cục trường thú thuỷ đ ường vọng tộc Trình Nghi Thuận.
 
 Viết Thời Vũ bát thi học sinh tiên công một.
   Viết Thúc Độ, Viết Trí Toàn giai ấu.
   Nữ ngũ:
   Viết Thị Oanh thích trạng nguyên Hàn lâm thừa học sĩ chi bát thị học sinh kiêm chi ngự tiền học sinh Nguyễn Trực.
   Viết Thị Quỳnh thích tiến sĩ Kiến Sương Lộ an phủ phó xứ Nguyễn Duy Quyết.
   Viết Thị Liên thích tôn thất thân tuỳ xá nhân tam cục chính giám Lê tộc nhạc.
   Viết Thị Lan, Viết Thị Xuân vị thích giai trình thị sở sinh dã.
   Vợ Ngài là Trình Thị Hiệu lúc đó mới năm mươi mốt tuổi.
   Có bốn con trai: Nhược Dung ngự tiền học sinh cục, để lại thuỷ đ ường vọng t ộc họ mẹ; vợ là Trình Thị Nghi Thuận.
 
 Thời Vũ, làm quan chức bát thị học sinh, mất sớm.
   Thúc Độ, Trí Toàn còn nhỏ.
   Con gái có năm:
   Thị Oanh lấy Trạng nguy ên hàn lâm thừa học sĩ chi bát thị học sinh kiêm ngự tiền học sinh Nguyễn Trực.
   Thị Quỳnh lấy tiến sĩ Kiến Sương lộ an phủ phó xứ Nguyễn Duy Quy ết.
   Thị Lan lấy người họ Nhà Vua than tuỳ xá nhân tam cục chính giám Lê Tôn Nhạc.
   Thị Lan, Thị Xuân còn nhỏ, chưa xây dựng gia đình.
   . Công Lượng hồng thức viễn minh ư khứ tưu xứ dĩ tiếp vật ngoại viên nội phương. Vi văn Chương tất dĩ. Lý Thắng Thượng Chương sớ tổng tam thập dự quốc Triều Lê luật đa sở dự nghi triều sĩ danh nhân đa xuất môn hạ tuy xứ phú quý nhị cung ước vô dị thư sinh.
   Hảo thiện tích đức chí lão du dốc cố năng bỉ ngộ tam triều. Cung ưng ngũ phúc dĩ công danh toàn chung thuỷ.
  
 
 
 
 
Thử, Ô hô số bách niên hậu kiến tư thạch giả chi kỳ vi đào tiên sinh chi phần.
   Ngài là người rộng lượng, kiến thức cao xa, hiểu lẽ đời nên lui, nên tới, tự xử, hoặc đối nhân xử thế đều được trong ấm, ngoài êm. Làm văn chương nặng về lý luận. Những chương sớ dân Nhà Vua của Ngài có trên 30 bài. Những luật lệ triều đình phần nhiều do Ngài thảo ra. Các quan trong Triều cùng các bậc danh nhân phần lớn là môn hạ của Ngài. Dẫu Ngài ở vị trí giầu sang như vậy mà vẫn tân trọng tiết kiệm như khi còn là học sinh. Ngài luôn luôn tu nhân tích đức từ trẻ đến già, càng già càng chăm. Có công phục vụ ba đời Vua. Công danh, năm phúc lớn, trước sau toàn vẹn vậy.
 
 
 
Tướng công chi hội tôn ký huyền tôn:
   Lê Triều tiến sĩ thụ Hàn lâm đông các đại học sĩ kiêm binh bộ tả thị lang Đào Công huý Nghiễm, tự Lộc Giang tiên sinh. Tiên tổ tỉ Đào môn phu nhân.
   Lê Triều tiến sĩ thụ hàn lâm Đông các đại học sĩ Linh hưu an tham chi Đào Công huý Phạm tự Lật Sơn tiên sinh. Tiên tổ tỉ Đào môn phu nhân. 
  
   Thành Thái, thất niên cửu nguyệt ngũ nhật Thái Bình tỉnh, Thư Chì huyện, Ngoại Láng xã. Nguyên Chánh tổng thụ chính bát phẩm Đào Đãn Đăng (Đồng) chi phái thừa Hưng Yên tỉnh, Tiên Lữ huyện, Thiện Phiến xã. Bản tộc giao hạ hà bia văn phụng tuân tạo khắc.
 
-------------------------------------------------
Theo bản viết tay lưu tại Nhà thờ Họ Đào xã Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên