Tiểu sử Hồ Chí Minh – Người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam (Phần 1): Người đã tìm thấy ánh sáng của con đường cách mạng Việt Nam như thế nào?
Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị lãnh tụ thiên tài. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
Giới thiệu chung về chủ tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh (Chữ Nho: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung (Chữ Nho: 阮生恭), là một nhà cách mạng và chính khách người Việt Nam. Ông là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955 và là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1951 đến khi qua đời.
Trong quãng thời gian sinh sống và hoạt động trước khi lên nắm quyền, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều quốc gia và châu lục, ông được cho là đã sử dụng 50 đến 200 bí danh khác nhau.
Về mặt tư tưởng chính trị, Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Marx – Lenin. Ông là lãnh đạo phong trào độc lập Việt Minh, tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, chiến tranh Đông Dương chấm dứt.
Trong giai đoạn diễn ra chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến thắng, hai miền Việt Nam được thống nhất, dẫn đến sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976. Thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh ông cũng như sự kiện này. Hồ Chí Minh rời khỏi chính trường vào năm 1965 vì lý do sức khỏe rồi qua đời vào năm 1969.
Ngoài hoạt động chính trị, Hồ Chí Minh cũng là nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp.
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà chính trị gia tài ba của dân tộc Việt Nam – Hồ Chí Minh
1.Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1 Quê hương, gia đình, thời niên thiếu và những hoạt động yêu nước đầu tiên(1890 – 1911)
Thời thơ ấu ở quê hương:
Quê Bác:
Nguyễn Sinh Cung, tên thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19-5-1890, Tại làng Hoàng Trù( còn gọi là làng Trùa), thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862.
Do cha mẹ mất sớm, từ nhỏ Nguyễn Sinh Sắc đã phải chăn trâu cắt cỏ giúp anh. Mặc dù cuộc sống khó khăn, vất vả nhưng Nguyễn Sinh Sắc rất ham mê học tập trong làng ai cũng khen. Tiếng đồn lan khắp xã. Cụ Hoàng Xuân Đường thương một thiếu niên mồ côi, quí đức tính cần cù, ham học, lại hiểu rõ gia cảnh của Nguyễn Sinh Sắc, bèn bàn với anh là Nguyễn Sinh Thuyết xin đem về nuôi, cho ăn học.
Thấy Nguyễn Sinh Sắc say mê học hành, chăm chỉ lao động, năm 1883, cụ Hoàng đã không câu nệ tập tục phong kiến, cho Nguyễn Sinh Sắc thành hôn với người con gái đầu Hoàng Thị Loan, dựng cho hai vợ chồng một căn nhà nhỏ ba gian ở góc vườn. Ông Sắc vừa giúp vợ làm ruộng, vừa học tập, bà Loan có thêm nghề dệt vải để lo cuộc sống gia đình. Bà là phụ nữ cần mẫn đảm đang, giàu lòng thương người.
Trong căn nhà ấm cúng đó, năm 1884, bà Hoàng Thị Loan sinh con gái đầu lòng Nguyễn Thị Thanh; năm 1888 sinh con thứ hai là Nguyễn Sinh Khiêm. Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình. Những người con của ông Nguyễn Sinh Sắc lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, chăm công việc và rất thương người.
Năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân kỳ thi hương tại trường thi Nghệ An. Hồi đó những người đỗ cử nhân, tú tài được cả làng, cả xã kính nể, nên có người thường coi mình cao hơn người khác, nhưng ông cử nhân Nguyễn Sinh Sắc thì vẫn giữ nếp sống và thái độ cư xử thân mật, gần gũi với bà con trong xóm, ngoài làng.
Ở Kinh Đô Huế:
Kinh thành Huế
Sau khi đỗ cử nhân năm 1895 ông Nguyễn Sinh Sắc vào Huế thi hội, nhưng năm đó ông không đỗ. Quyết chí học hành cho đến nơi đến chốn, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám lúc bấy giờ đặt làng An Ninh Thượng cách thành phố Huế 7 km về phía Tây. Hồi đó những người ở tỉnh xa vào học Quốc Tử Giám phải khá giả mới có tiên trọ học. Còn những người nghèo thường phải đưa cả gia đình đi theo để vừa học vừa kiếm sống nuôi nhau. Cuối năm 1895, ông Sắc trở về làng đưa vợ và hai con trai vào Huế.
Năm 1898, khoa Mậu Tuất, ông Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật, khó khăn. Được một người quen giới thiệu, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học ở làng Dương Nỗ, cách thành phố Huế 6 km về phía Đông (Nay thuộc xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên- Huế).
Chính tại làng Dương Nỗ, Nguyễn Sinh Cung bắt đầu học chữ Hán, tập viết chữ trong cuốn sách Tập đồ hàng tư.
Với trí nhớ tốt, các bài học Nguyễn Sinh Cung chỉ đọc ba bốn lần là thuộc.
Năm 1900, Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hóa. Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm cùng đi để đỡ đần ông, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế.
Cuối năm 1900, bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư. Cha và anh đi vắng, Nguyễn Sinh Cung vừa tự học, vừa giúp mẹ chăm sóc em mà bà con thường gọi là bé Xin, nhưng bé Xin quá yếu cũng qua đời sớm.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tí (tức ngày 10-2 năm 1901) bà Hoàng Thị Loan lâm bệnh và đột ngột qua đời ở Huế.
Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc vội vã trở lại Huế, đưa con về quê.
Hơn 5 năm sống ở chốn kinh thành, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ.
Từng bước trưởng thành trên quê hương:
Trở lại quê hương, ông Nguyễn Sinh Sắc thu xếp tạm ổn cuộc sống cho các con, nghe lời khích lệ của bà con trong họ, ngoài làng, ông lại tạm biệt quê hương, vào Huế dự kì thi hội năm Tân Sửu đời Thành Thái thứ 13 (tức năm 1901). Lần đi thi này ông mang tên mới là Nguyễn Sinh Huy.
Ở lại quê hương Nguyễn Sinh Cung được bà ngoại gửi đi học chữ Hán.
Tại khoa thi năm đó ông Nguyễn Sinh Huy đỗ phó bảng.
Mấy tháng sau theo tục lệ thời ấy, ông Nguyễn Sinh Huy đưa ba người con về sống ở Kim Liên, quê nội. Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung, thế hệ thứ mười hai kể từ khi dòng họ Nguyễn Sinh sống ở làng, được làm lễ vào làng với tên gọi mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành.
Ông Nguyễn Sinh Huy quyết định gửi Nguyễn Tất Thành sang học với thầy Vương Thúc Quý đang mở lớp chữ Hán cho một số thiếu niên trong làng. Thấy Quý tuy đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan. Ông muốn Nguyễn Tất Thành được học chữ của thầy, nhưng điều quan trọng hơn, đó là học lòng yêu nước thương dân của thầy Quý.
Nhà thầy Quý còn là nơi lui tới của các sĩ phu yêu nước trong vùng. Nhiều khi Nguyễn Tất Thành được thầy sai tiếp nước cho những vị khách đặc biệt ấy, nhờ đó cậu thiếu niên Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan.
Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống của nhân dân, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Thuế khóa vốn đã nặng nề lại còn thêm thủ đoạn ăn cuớp trắng trợn và dã man của bọn hào lý.
Cùng với thuế khóa là nạn bắt phu đi xây dựng thị xã Vinh, phu đi mở mang hệ thống đường giao thông trong tỉnh để thực dân Pháp có điều kiện thuận lợi vơ vét tài nguyên và ở đâu có nổi dậy đấu tranh thì nhanh chóng điều quân đi đàn áp.
Tháng 9-1905, thực hiện Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, loại trường Pháp – bản xứ (école franco-indigène) đuợc mở tại Vinh, tỉnh lỵ của Nghệ An, với lớp đầu tiên của bậc tiểu học, thường gọi là lớp (curs préparatoire). Chương trình học nặng về tiếng Pháp, chỉ còn một số ít học chữ Hán. Nguyễn Tất Thành được phụ thân cho đi học ở Vinh
Tại trường tiểu học Vinh, Nguyễn Tất Thành chú ý đến ba từ được sơn vào gỗ, gắn ở phía trên bảng đen “LIBERTé, éGALITé, FRATERNITé” (Tự do- Bình đẳng- Bác ái).
Bình đẳng, Tự do, Bác ái
Anh tìm hiểu và biết đó là khẩu hiệu nổi tiếng của đại cách mạng Pháp năm 1789. Đối với anh, đó là những điều hoàn toàn mới lạ, khác với những điều mà anh đã học trong sách vở thánh hiền…, vì vậy rất tự nhiên, anh nảy ra ý muốn “tìm hiểu những gì ẩn dấu trong những từ ấy”.
Nhưng chưa hết năm học khoảng cuối tháng 4-1906, anh Thành phải nghỉ học để chuẩn bị cùng cha lên đường vào Huế.
Tham gia biểu tình chống thuế tháng 4-1908:
Vào Huế, cùng với anh, Nguyễn Tất Thành phải học lại lớp dự bị ở trường tiểu học Pháp- Việt Đông Ba, niên khóa 1906-1907 và tiếp theo đó học lớp sơ đẳng vào năm 1907-1908 với tên mới là Nguyễn Sinh Côn.
Cuộc biểu tình chống thuế.
Tháng 4-1908, vào gần cuối năm lớp sơ đẳng của anh Thành, kinh đô Huế lại xôn xao, náo động về một sự kiện mới: bị mất mùa liên tiếp 3 năm, nông dân 6 huyện của tỉnh Thừa Thiên kéo nhau rầm rập về kinh thành. Bà con vây quanh tòa Khâm sứ ở cầu Tràng Tiền để đòi giảm sưu, giảm thuế. Nguyễn Tất Thành đã tham gia những cuộc biểu tình này. Thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp những người nông dân hiền lành.
Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt chuyển sang học trường Quốc Học Huế.
Tuy vốn tiếng Pháp còn ít ỏi, Nguyễn Tất Thành bắt đầu tiếp xúc với sách báo Pháp, bao gồm cả sách báo mượn của những người lính lê dương trong quân đội Pháp. “Những người lính lê dương này đọc đủ thứ. Họ là những kẻ chống đối về bản chất” .
Sau khi tham gia cuộc biểu tình chống thuế, Nguyễn Tất Thành bắt đầu bị bọn cảnh sát theo dõi và nhà trường để ý đến anh. Bọn quan cai trị thực dân khiển trách Nguyễn Sinh Huy về việc con trai ông phát ngôn bài Pháp.
Khoảng hạ tuần tháng 5-1909, Nguyễn sinh Huy có mặt ở Bình Định để chấm thi, sau đó, được bổ nhiệm chức đồng phủ lãnh chức tri huyện Bình Khê.
Cuối năm đó, Nguyễn Tất Thành rời trường Quốc học, theo phụ thân vào Bình Định.
Đến Bình khê, Nguyễn Tất Thành được gửi học tiếp chương trình lớp nhất (cours supéricur) với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ lúc ấy đang dạy ở truờng tiểu học Pháp- Việt Quy Nhơn. Ông hiểu khả năng và chí hướng người con trai thứ của mình, nên đã tạo điều kiện cho anh tiếp tục học lên.
Tháng 1-1910, Nguyễn Tất Thành được một tin không vui, ông Nguyễn Sinh Huy bị “triệu hồi” chức tri huyện Bình Khê, bị triều đình gọi “lại kinh hậu cứu” (trở về kinh đô để xem xét sau).
Với sự giúp đỡ của thầy giáo Phạm Ngọc Thọ, Nguyễn Tất Thành hòan thành chương trình tiểu học vào khoảng tháng 6-1910. Trước biến cố mới của gia đình, anh không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam.
1.1.5 Tìm đường ra nước ngoài:
Anh Thành đến Phan Thiết vào cuối tháng 8-1910. Nhờ gặp được một người có mối quan hệ từ trước với phụ thân, anh được giới thiệu vào làm trợ giáo môn thể dục tại Trường Dục Thanh, đúng vào dịp nhà trường mới khai giảng.
Đầu tháng 2-1911, thầy giáo Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm trú tại các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm); nhà số 128, Khánh Hội…
Anh đi vào xóm thợ, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi đang làm thợ hay học nghề ở Trường kỹ nghệ thực hành (école pratique d’ industrie), Trường đào tạo thợ máy á Đông ở Sài Gòn (école dé mécaniciens Asiatiquess de Sai Gòn); anh cũng làm quen với những hiệu giặt là ở gần cảng Nhà Rồng, chuyên nhận giặt quần áo cho các thủy thủ trên tàu của Pháp để xin làm việc trên tàu. Anh đang tìm cách thực hiện những chuyến đi xa.
Bến cảng Nhà Rồng.
Ngày 3-6-1911, một thủy thủ của tàu dẫn Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba, lên tàu gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu.
Ngày 5-6-1911, tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille), mang theo một người thanh niên Việt Nam đầy lòng yêu nước, thương dân, ôm ấp một hoài bão lớn lao: tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để về giúp nước. Một giai đoạn mới, một bước ngoạt mới mở ra trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành.
Từ người yêu nước trở thành chiên sĩ cộng sản( 6/ 1911- 12/ 1920)
Lên đường sang phương Tây qua châu Phi , Mỹ và trở lại Pháp.
Những hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tham gia Đảng Xã hội và bản Yêu sách của nhân dân An Nam:
Bản yêu sách của nhân dân An Nam.
Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc lên đường sang phương Tây, Với chân phụ bếp trên tàu, hằng ngày anh Ba phải làm việc từ 4 giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn, sau đó, đốt lò, đi khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá…
Anh làm việc trong nhiêt độ không bình thường: trong bếp thì rất nóng, ở dưới hầm thì rất lạnh. Anh phải vác nặng từ dưới trèo lên những bậc thang khi con tàu đang tròng trành vì sóng biển. Xong các việc trên, anh phải dọn cho bọn chủ bếp người Pháp ăn. Rồi nhặt rau, rửa xoong chảo, đốt lò lại.
Nhà bếp phải lo ăn cho hàng trăm người nên các đồ dùng nấu ăn đều to, nặng. Công việc bận rộn vất vả suốt cả ngày, đến 9 giờ tối mới xong. Mỗi tháng, bọn chủ trả cho anh 45 phrăng là hạng tiền công rẻ mạt.
Với thái độ thân mật, lễ độ với mọi người, anh Ba được các bạn cùng làm trên tàu yêu mến, sẵn sàng giúp đỡ, chỉ bảo những việc còn mới lạ. Sau khi làm xong việc, anh tranh thủ học tập, đọc hoặc viết đến 11, 12 giờ đêm mới nghỉ, để 4 giờ sáng hôm sau lại bắt tay vào những công việc của một ngày mới.
Sau một tháng trời lênh đênh trên biển cả và ghé lại mộ số cảnh để trao đổi hàng, tiếp thêm nhiên liệu, nứơc ngọt, thực phẩm, ngày 6-7-1911, tàu cập bến Mácxây.
Tại Mácxây, ngày 15-9-1911, anh viết thư gửi Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, ký tên Nguyễn Tất Thành, xin được vào học Trường Thuộc địa với “ý muốn trở thành có ích cho đồng bào tôi, muốn cho họ được hưởng những lợi ích của học thức”.
Tháng 10-1911, Pari đã trả lời từ chối yêu cầu của anh.
Đi qua châu Phi và những năm tháng ở Mỹ, Anh:
Năm 1912, Nguyễn Tất Thành đang làm vườn cho ông chủ hãng Sácgiơ Rêuyni thì được biết sắp có một chuyến tàu chở hàng đi vòng qua châu Phi, anh vui vẻ nhận lời vì “muốn đi xem các nước”.
Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctiních (Martinique) (Trung Mỹ), Urugoay và áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912.
Nguyễn Tất Thành từng đến thăm quận Brúclin (Brooklyn) của thành phố Niu Oóc (New York).
Anh thường đi xe điện ngầm tới khu Háclem (Harlem), để tìm hiểu nguồn gốc lịch sử, cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và kỳ thị chủng tộc của người da đen.
Khoảng giữa năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo con tàu rời Mỹ trở về Lơ Havơrơ đi Anh, như anh nói để học tiếng Anh và xem nước tự nhận là “mặt trời không bao giừ lặn” trên đế quốc của mình hiện tình ra sao.
Để có tiền sống, mới đầu Nguyễn Tất Thành xin làm việc quét tuyết cho một trường học. Sau đó, anh xin chân đốt lò ở trung tâm sưởi ấm của thành phố London. Đây là một công việc rất nặng nhọc: trong hầm hết sức nóng, ra ngoài trời cực kỳ rét, không có đủ quần áo, anh bị cảm, phải nghỉ làm việc hai tuần.
Với sô tiền nhỏ dành dụm được, anh trả tiền thuê phòng ở, ăn và trả công thầy dậy tiếng Anh gần hết, Nguyễn Tất Thành phải đến Sở tìm việc và được giới thiệu làm thuê ở khách sạn CácLơTơn (Carlton) tại thủ đô LuânĐôn (London).
Trở lại Pháp hoạt động trong phong trào…
Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp và cư trú ở Pari.
Khi mới đến Pari, đầu tiên anh Nguyễn được bố trí náu mình trong một căn buồng ở phố Saron (Charonme), sau được một đồng chí người Italia thu xếp đến ở nhà một đồng chí tên là Moktar người Tuynidi ở quận 13.
Sau khi đã được các đồng chí Xã Hội Pháp kiếm cho thẻ lao động hợp pháp, giữa năm 1919, anh dọn đến nhà số 10, phố Xtốckhôm (Stockholm), rồi lại chuyển đến số 56, phố Mơxiơ lơ Pơranhxơ (Monsieurr le Prince).
Nhờ lăn lộn trong quần chúng lao động ở khu phố Êpinét (ếpinette) nghèo nàn, giữa Pari hoa lệ đó, anh Nguyễn đã nhanh chóng đến được với phái tả của cách mạng Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã Hội Pháp.
Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình Đẳng, Bác ái”.
Tự Do, BÌnh Đẳng, Bác Ái
Bản yêu sách của nhân dân An Nam
Nhân Hội nghị các nước đế quốc họp ở Vécxay (Versaillé), có đại biểu chính phủ các nước thắng trận: Mỹ, Anh, Pháp, ý, Nhật, Bỉ, v.v một bên, và nước thua trận là Đức một bên, những người yêu nước Triều Tiên, Ai Cập, Trung Quốc… đưa yêu sách của mình đến Hội nghị và mong được xem xét, giải quyết.
Thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc tới lâu đài Vécxay trao bản Yêu sách cho văn phòng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi bản Yêu sách đến các đoàn đại biểu các nước Đồng minh dự Hội nghị, trong đó có đoàn đại biểu chính phủ Mỹ. Hầu hết các đoàn đại biểu đều có thư trả lời Nguyễn Ái Quốc.
Bản yêu sách của nhân dân An Nam
Sau khi bản Yêu sách bằng tiếng Pháp được in vào ngày 18-6-1919, Nguyễn Tất Thành còn tự tay viết Yêu sách bằng hai thứ chữ: một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư, chụp in thành truyền đơn.
Nguyễn Tất Thành cùng một số kiều bào trong Hội người Việt Nam yêu nước đem phân phát trong các cuộc hội họp, mít tinh, các buổi sinh hoạt câu lạc bộ,…
Những bài báo đầu tiên chống chủ nghĩa…
Từ yêu cầu của thực tiễn đấu tranh, Nguyễn Ái Quốc thấy cần phải học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Phong trào công nhân và Chủ nghĩa xã hội ở Pháp đã đưa anh đến với hoạt động báo chí.
Nguyễn Ái Quốc kiên trì học tập, học tiếng Pháp, học cách viết báo, ngày đi làm, tối đi hội họp, mittính, tuy khá vất vả, nhưng anh vẫn cố gắng viết để tố cáo tội ác của bọn thực dân.
Bài báo đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc, đúng với tính cách một bài báo, là bài báo Vấn đề dân bản xứ, đăng báo L’Humanité ngày 2-8-1919.
Lên án Chủ Nghĩa Thực Dân, Thúc Đẩy Sự Nghiệp Giải Phóng Các Dân Tộc Thuộc Địa (1921 – 6-1923):
Ở Pari, Nguyễn Ái Quốc sống chủ yếu băng nghề in phóng ảnh. Do việc làm không ổn định, tiền kiếm được ít, giá sinh hoạt mỗi ngày một đắt đỏ, đời sống gặp nhiều khó khăn nên anh còn phải nhận làm thêm việc vẽ quạt, lọ hoa và chao đèn bằng sơn màu.
Từ khi ký tên thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam vào bản yêu sách 8 điểm, sự tìm kiếm việc làm của Nguyễn Ái Quốc càng khó khăn, do có sự can thiệp của cơ quan an ninh Pari đối với những chủ hiệu thuê anh làm.
Sau ngày 14-7-1921, Nguyễn Ái Quốc rời ngôi nhà số 6, Vila đề Gôbơlanh đến nơi mới tại gác 2 nhà số 9 ngõ Côngpoăng (compoint).
Đó là một căn phòng rộng 9 mét vuông cũ kỹ, nhỏ bé nằm trong ngõ cụt thuộc một khu phố nghèo ở Pari, trong những năm ấy vẫn chưa có ánh sáng điện. Căn phong cho thuê trang bị rất sơ sài: một cái giường cá nhân bằng sắt, một cái bàn nhỏ, một chiếc ghế, một cái tủ áo và vài thứ đồ dùng rẻ tiền.
Công việc kiếm ăn bấp bênh như vậy, nên khi có việc kiếm được tiền, anh vẫn phải tiết kiệm, đề phòng lúc thất nghiệp hay đau ốm. Anh ăn uống tằn tiện, mua những món ăn rẻ tiền: nấu cơm trên bếp đèn cồn với một con cá mắm hoặc một ít thịt, sáng ăn một nửa và dành một nửa đến chiều. Có khi chỉ một chiếc bánh mì với một chiếc pho mát là đủ ăn cho cả ngày.
Về mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, anh để một viên gạch vào cạnh lò bếp, chiều về anh lấy viên gạch ra, bọc vào trong những tờ báo cũ, để xuống giường cho nắm cho đỡ rét.
Thường thường, anh chỉ đi làm việc buổi sáng, còn buổi chiều đến thư viện hoặc đi dự những buổi nói chuyện chính trị để nâng cao hiểu biết hay tham dự các buổi míttinh. ở đó anh cũng tham gia phát biểu tranh luận và khéo léo lái những đề tài thảo luận sang vấn đề thuộc địa nhằm lên án tội ác của bọn thực dân.
Tham gia đại hội lần thứ I:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Cộng sản Pháp họp ở Pari từ ngày 21 đến ngày 24-10-1922. Nguyễn Ái Quốc lại được cử làm đai biểu.
Theo lời đề nghị tích cực của Nguyễn Ái Quốc, Đại hội đã biểu quyết thông qua Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa do Ban nghiên cứu thuộc địa đệ trình, với tác giả soạn thảo là Nguyễn Ái Quốc và Ápđen Kađe.
Nguyễn Ái Quốc còn tham gia các Hội nghệ thuật và khoa học, Hội những người bạn của nghệ thuật. Những hội này hàng tuần tổ chức những cuộc đi thăm các bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật, nhà hát, có những nhà chuyên môn hướng dẫn và giới thiệu.
Anh cũng vào Hội du lịch để được đi tham quan nhiều nơi ở Pháp , Ý, Thụy Sĩ, Đức và cả Tòa thánh Vaticăng, không phải chỉ vì thích du lịch mà vì anh muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào.
Tham gia sáng lập hội Liên Hiệp thuộc địa và Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Le Paria (Người cùng khổ):
Được sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng Sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với đại biểu các thuộc địa của Pháp có mặt ở Pari đứng ra vận động thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, một hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị, liên minh với giai cấp vô sản chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Bản Tuyên ngôn của “Hội Liên Hiệp thuộc địa”, do Nguyễn Ái Quốc viết, được Hội đồng nhất trí thông qua trong cuộc họp ngày 28-5-1922.
Hội Liên Hiệp thuộc địa cho xuất bản tờ báo Le Paria làm cơ quan ngôn luận của Hội, Nguyễn Ái Quốc được Ban Chấp hành Hội phân công làm chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ báo.
Báo người cùng khổ.
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách tờ báo từ số 1 đến số 15 (6-1923). Trước khi rời nước Pháp đi Liên Xô, anh vẫn còn chuẩn bị bài để lại cho các số sau. Trong thời gian đó, anh đã cho đăng trên 30 bài viết và tranh vẽ ký tên Nguyễn Ái Quốc hoặc các bút danh đã được xác định. Có số anh viết tới 4 bài, có bài dài đăng liền trong hai số.
Nguyễn Ái Quốc được Đảng Cộng sản Pháp coi là một thành viên sáng lập.
Nhân Hội nghị quốc tế Nông dân và Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản dự định triệu tập vào cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc được chính thức mời qua Nga tham dự và phát biểu về vấn đề thuộc địa.
Ngày 13-6-1923, từ ga Đuy No (Du Nord), anh lên tàu rời Pari.
Những hoạt động trong phong trào công sản quốc tế(1923-1924)
Lần đầu đến đất nước Liên Xô
Nguyễn Ái Quốc lưu lại trên đất Đức từ ngày 18 đến ngày 22-6-1923, chờ tàu biển đi Liên Xô.
Ngày 27-6-1923, anh được đưa xuống tàu biển, mang tên nhà cách mạng Các Lipnếch, rời Hămbuốc và đến cảng Pêtơrôgrát: ngày 30-6-1923. Làm xong thủ tục nhập cảnh, ít ngày sau, Nguyễn Ái Quốc được bố trí lên xe lửa đi Mátxcơva.
Hoạt động ở quốc tế nông dân:
Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân được triệu tập và khai mạc ngày 10-10-1923 trong cung Anđrâyépxki ở Kremli. Tham dự Hội nghị có 158 đại biểu, trong đó có 122 đại biểu chính thức, đại biểu cho nông dân của 40 nước trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự với tư cách là đại biểu chính thức của nông dân Đông Dương.
Với những ý kiến đóng góp tích cực, có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn. Nguyễn Ái Quốc đã giành được sự tín nhiệm của các đại biểu các nước. Ngày 17-10-1923, Hội đồng Quốc tế Nông dân họp phiên đầu tiên, bầu Người vào Đoàn Chủ tịch gồm 11 ủy viên, trong đó Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa.
Vào trường Đại học phương Đông
Trường Đại học Cộng sản của những người lao động phương Đông – gọi tắt là Trường Đại học phương Đông – được thành lập ngày 21-4-1921, trực thụôc Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Nhiệm vụ của trường là đào tạo cán bộ cách mạng cho các nước phương Đông và các nước cộng hòa Trung Á của Liên Xô.
Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên vào học Trường Đại học phương Đông.
Trong thời gian học tập ở Trường Đại học phương Đông, Nguyễn Ái Quốc đã trao đổi với nhóm thanh niên Trung Quốc ở trường, tập hợp những tư liệu do họ cung cấp và viết thành cuốn Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc.
Sau khi học xong lớp ngắn hạn của Trường Đại học phương Đông, trong khi chờ đợi chuyến lên đường về Châu Á, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào làm cán bộ của Ban phương Đồng Quốc tế Cộng sản theo quyết định, do Pêtơrốp ký, đề ngày 14-4-1924.
Những bài báo viết trên đất nước Liên Xô:
Trong thời gian ở Liên Xô, ngoài việc tiếp tục gửi bài, chăm lo cho sự tồn tại và phát triển của tờ báo Le Paria, Nguyễn Ái Quốc còn viết nhiều bài gửi đăng tập san của Quốc tế Cộng sản, báo L’ Humanité, La Vie Ouvrière và báo Pravđa.
Hoàn thành tác phẩm:
Trong những ngày ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã có điều kiện hoàn thành Bản án chế độ thực dân Pháp.
Cuốn sách gồm 12 chương và một phụ lục, đề cấp đến ba nội dung lớn: Tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp; sự thức tỉnh của các dân tộc thuộc địa; và phương hướng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc theo đường lối của Quốc tế Cộng sản.
Báo cáo Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ:
Theo những tin tức nhận được, Nguyễn Ái Quốc biết sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất hiện có nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam đang có mặt ở Quảng Câu.
Họ có thừa nhiệt huyết nhưng chưa có tổ chức và thiếu một đường lối đúng đắn trong hoạt động. Nguyễn Ái Quốc nóng lòng được tới niềm Nam Trung Quốc để “tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.
Sau nhiều lần đề đạt, nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản chấp nhận. Với tư cách là ủy viên Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao trách nhiệm theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước châu Á.
Một ngày cuối tháng 10-2924, Nguyễn Ái Quốc rời Mátxcơva đi xuống Xibêri, nghỉ lại ở Vlađivôxtốc rồi xuống tàu viễn dương của Liên Xô, đi Trung Quốc. Người đến Quảng Châu ngày 11-11-1924.
Còn tiếp
Nguồn: hosonhandan.com