475 lượt xem

Mạc Phúc Hải

Cuối đời Mạc Đăng Doanh, quan hệ với nhà Minh lại trở nên căng thẳng. Tình hình ở phía Nam cũng nguy cấp: Quân đội Lê Trung Hưng sau 7 năm chiêu binh luyện mã cũng đủ sức về đánh chiếm Nghệ An và hai năm sau năm Quý Mão (1543) đã kiểm soát được cả Tây Đô (Thanh Hoá). Mạc Đăng Dung phải trở lại Đông Kinh đưa cháu nội là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi năm Tân Sửu (1541).

Lúc này, ở Trung Quốc, Minh Thế Tông đem việc Nam chinh ra luận bàn, rất nhiều quan lại nhà Minh dâng sớ can vua nên mềm dẻo mà giải quyết việc biên giới phía Nam, rút bài học thất bại của các đời vua trước. Hộ bộ thị lang Đường Trụ dâng sớ trình bày 7 điều không nên đánh An Nam, cho rằng các đời vua trước chưa bao giờ thắng lợi ở An Nam kể từ Mã Viện đến Minh Thái Tông… Thị lang Phan Trân lại nói: “Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy; nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp công thì coi như được”.

Vua Thế Tông nhà Minh và lũ triều thần bàn đi bàn lại hàng tháng trời, rút cục vẫn muôn nối chí Minh Thành Tổ là chiếm nước Nam làm quận huyện như trước. Vua Minh cử Cừu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ phụ trách việc đánh dẹp; Hồ Liên, Hộ bộ thị lang và Cao Công Thiều đi đốc thúc quân lương ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân xâm lược đang ngấp nghé ở biên thuỳ phía Bắc. Nguy cơ một cuộc chiến tranh rất bất lợi cho nhà Mạc là có thật. Nhưng Mạc Đăng Dung cũng biết được nội bộ triều Minh không nhất trí trong việc đánh An Nam. Qua viên tướng giữ Châu Liêm và Trương Nhạc, vua Mạc biết là có thể thoát ra khỏi cuộc chiến tranh bằng giải pháp hòa bình. Các quan tham chính nhà Minh đòi Mạc Đăng Dung phải đích thân đến cửa quân, nộp đất dựng mốc, bỏ đế hiệu đã tiếm xưng và theo chính sóc[1] và theo niên lịch của nhà Minh.

Đó cũng là cái cớ để cho Cừu Loan và Mao Bá Ôn vốn ngại chinh chiến xuống phương Nam bãi binh. Rút bài học từ cha con họ Hồ, Mạc Đăng Dung lúc này tuy đã nhường ngôi cho con tiếp sau là cháu, trở về sang cảnh điền viên ở cổ Trai, vẫn phải chấp nhận yêu cầu trên: tự trói mình trước phủ quân Minh ở trấn Nam Quan, trả lại 4 động, xin nội phụ… Ông già Mạc Đăng Dung mặc dù lòng không muốn vẫn phải gắng sức cuối cùng chịu nỗi nhục (khổ nhục kế) để con cháu ông tránh khỏi một cuộc chiến tranh khốc liệt mà chắc chắn là tốn rất nhiều năm xương máu của cả hai bên.

Sau sự kiện quá sức đó, trở về cổ Trai sống những ngày còn lại, chẳng bao lâu thì Mạc Đăng Dung mất, đó là một ngày thu tháng Tám năm Tân Sửu (1541). Như vậy Mạc Đăng Dung làm vua 3 năm, làm Thái thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi. Ông có để lại di chúc: Không làm đàn chay cúng Phật, khuyên Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.

Tháng Mười năm ấy Mao Bá ôn về đến Yên Kinh tâu với vua Minh việc Mạc Đăng Dung đã tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc… Nếu xem Mạc Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng mà chưa có thể khinh suất cho tước và đất, thì hãy mong tha tội cho cháu là Phúc Hải… Còn như Lê Ninh tuy tự xưng là con cháu nhà Lê nhưng tung tích chưa rõ ràng… Thế là tháng Ba năm Nhâm Dần (1542) nhà Minh phong Mạc Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ ty và cho một quả ấn bạc và cũng tháng Mười hai năm đó (1542) Mạc Phúc Hải lên trấn Nam Quan hội khám và nhận lại lịch đại thống của nhà Minh, một đạo sắc phong nhà Minh lại phong cho Mạc Phúc Hải được tập tước của ông làm An Nam đô thống sứ ty.

Thời Mạc Phúc Hải, theo lời bàn của thiếu sư Mạc Ninh Bang, đã tiến hành việc chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ – một lực lượng quân sự to lớn được nuôi dưỡng để chống lại Nam triều.

Trong khi đó, tại Nam triều, quân binh do Lê Trang Tông tự làm tướng đã kéo ra Yên Mô (Ninh Bình), Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim bị đánh thuốc độc chết đột ngột, quyền hành lọt vào tay con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Lực lượng phía Nam triều ngày càng được củng cố. Mạc Phúc Hải lại thường say mê hát xướng, thích chơi chọi gà, ít quan tâm đến triều chính, mọi mặt giảm sút. Song Phúc Hải làm vua không lâu. Ngày 8 tháng Năm năm Bính Ngọ (1546), Phúc Hải chết, ở ngôi 6 năm, về sau truy tôn là Hiến Tông Hiển hoàng đế.

Hoc360.net