642 lượt xem

Hồ Sĩ Tạo

Hồ Sĩ Tạo
(1841-1907)
 
Tự là Tiểu Khê, là một nho sĩ Nghệ An thế kỷ 19. Ông quê làng Lai Nhã, xã Thái Nhã, tổng Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, nay là xã Thanh Khê, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Theo Gia phả Hồ tộc làng Song Nhã (họ Hồ ở thôn Lai Nhã - xã Thái Nhã - một nhánh của họ Hồ ở Cương Gián, Nghi Xuân, Hà Tĩnh và cũng từ ông tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An mà ra) chép: “Ông Hồ Sĩ Tạo, húy là Thàng, đẹp trai, học giỏi, thông minh, thi Hương đậu Giải nguyên, thi Hội trúng Tam trường. Lúc vào tứ trường phúc hạch thì bị vua đánh hỏng bởi vì đến triều Nguyễn, thời vua Tự Đức, Pháp sang xâm lược nước ta. Vua Tự Đức thì muốn đầu hàng, bèn ra bài thi phỏng vấn thí sinh, ai theo ý vua muốn đầu hàng thì đậu. Còn ai muốn đánh Pháp là trái ý vua. Bài của ông Tạo rất hay, song trái ý vua, cũng như những người yêu nước khác nên bị hỏng. Sau ông được bổ làm quan giáo dục huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tái bổ làm quan Thông phán 6 tháng. Sau đó tái bổ làm quan Tri phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Tương truyền lúc ông Hồ Sĩ Tạo trên 20 tuổi, tuy con nhà Nho giáo, song rất nghèo và thanh liêm, nên ông phải vừa đi học, vừa tự túc học thêm để trau dồi văn chương. Sử chép ông rất đẹp trai, nhất là hát đối đáp và đàm đạo văn chương. Ông từng ngồi dạy học ở nhà ông Hà Văn Cẩn. Trong gia phả chữ Hán có chép có cô con gái rượu của ông Cẩn là Hà Thị Hy, một người nhan sắc xinh đẹp đã yêu ông Tạo. Khi ông Tạo về nhà xin cha cho hỏi cô Hy làm vợ, thì cụ thân sinh là Hồ Sĩ Tuyển chưa cho lấy, vì chưa đậu đạt thành danh. Do đó, ông Tạo đành ngậm ngùi, không dám xuống làng Mậu Tài dạy học nữa và nói lời từ biệt… Tương truyền khi bà Hy lâm bệnh chết, ông Tạo làm điếu văn, đọc ở mộ, mọi người có mặt ai cũng cảm động và khóc cùng tang quyến”.
 
Ở trang sau trong gia phả, phần “Đôi điều suy diễn” chép tiếp: “Truyền rằng cụ Hồ Sĩ Tạo đi lại với bà Hà Thị Hy ở làng Mậu Tài, Nam Đàn thuở xuân xanh. Khi bà Hy còn mang thai, thì cụ Tuyển chưa cho ông lấy vợ để lên đường chấp kinh thi cử. Cụ Nguyễn Sinh Nhậm chết vợ, vả lại đã già yếu, lấy bà Hy làm vợ kế. Thai này ra đời là cụ Nguyễn Sinh Sắc” (Nguyên văn chữ Hán do ông Hồ Sĩ Thanh dịch, tháng 12/1948).
 
Hồ Sỹ Tạo đỗ đầu kỳ thi Hương (Giải nguyên) năm Tự Đức thứ 21 (1868), (cùng khoa thi này Hoàng Cao Khải đậu cuối bảng) và là người đầu tiên giành được thứ hạng này ở tổng Võ Liệt. Sau ông được bổ làm quan giáo dục huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tái bổ làm quan Thông phán 6 tháng. Sau đó tái bổ làm quan Tri phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.Ông nổi tiếng hay chữ, bấy giờ ở xứ Nghệ có câu: “Văn Giao, phú Tạo, thơ Thành” (Văn hay có Nguyễn Văn Giao, phú giỏi có Hồ Sĩ Tạo, thơ đặc sắc có Nguyễn Nguyên Thành).

Ông là thầy học của nhiều nhà khoa bảng xứ Nghệ và là người có công dạy dỗ, giúp đỡ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trên con đường cử nghiệp.

Tác phẩm

Thơ văn của ông hiện nay con cháu không còn giữ được, bị thất lạc trong cải cách ruộng đất. Ông đã từng cùng em họ là Cử nhân Hồ Sĩ Tuấn đến thăm nhà thờ họ Hồ ở Quỳnh Đôi và lưu lại ở đây đôi câu đối:

Trâm anh nhất thổ Quỳnh Đôi trụ
Hương hoả thiên thu Cổ Nguyệt đường

(Hồ Sĩ Hùy tạm dịch: Nhà thờ họ Hồ nghìn thu hương hoả. Cột trụ Quỳnh Đôi một sắc trâm anh)
 
Ông còn có câu đối mừng thọ cụ Can Bang 80 tuổi. (Cụ ở xã Đại Đồng, tổng Đại Đồng, huyện Thanh Chương, là mẹ Cử nhân Nguyễn Như Cơ (đậu năm 1882) và là em gái Tiến sĩ Nguyễn Hữu Điển (1825- ?) đậu Cử nhân năm 1846, Tam giáp Tiến sĩ năm 1853):

Yên Sơn đan quế liên phương nhật/ Vương Mẫu bàn đào kết thực niên. (Tạm dịch: Bàn đào Vương Mẫu năm năm kết trái/ Đan quế Yên Sơn ngày ngày toả hương).

Lúc làm Tri phủ ở Quảng Trạch, Quảng Bình mắc tội, bị giáng làm Giáo thụ (phụ trách việc học ở phủ), ông có làm câu đối tự thuật:

Ngã đặc hà vi đa sự tai: thiếu phủ hư danh sĩ, tráng tác hoạn trường nô, gián hữu thất túc ư quốc sự tù, bán thế dĩ thành tam biến kiếp;

Kim khả dĩ cáo vô tội hĩ: triêu xuất canh điền ông, mộ nhập quán viên tẩu, dạ lai vĩnh toạ thính gia nhi độc, dư sinh tằng vấn kỷ tri âm!

Cụ Nguyễn Văn Huyền dịch:

Riêng ta sao mà lắm chuyện thay: trẻ là kẻ sĩ hư danh, lớn là đầy tớ quan lớn, giữa chừng lỡ chân quốc sự vào tù, nửa đời từng qua ba bốn kiếp;

Nay mình đáng nói không tội vậy: sớm làm ông già cày ruộng, chiều thành cụ lão tưới vườn, tối đến nghe lũ gia nhi ngồi học, tuổi chưa từng hỏi mấy tri âm! (Theo Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 19, NXB  KHXH).

Hai bài thơ:

 
Vịnh Hà Nội
 
Gió bụi nhiều nay tới cố kinh
Sớm ra nhìn lại xót xa tình
Cá hồ xao động ba triều biến
Long Đỗ trơ vơ mấy dặm tình.
Bảng lảng núi Nùng mây phủ kín
Khóc than dòng Nhị nước trôi nhanh
Anh hùng, hào kiệt đi đâu cả
Ai giúp non sông rửa bất bình?

 
               Vũ Minh Anh dịch
 
Đề đền thờ ba vị trung liệt
 
Khói bụi mờ mịt trên thành Rồng
Dưới thành máu đỏ nhuốm đầy sông
Thành trả, Nguyễn nguyên soái không về
Thành mất, mất luôn Hoàng Tướng công
Đời tựa bóng câu qua cửa vách
Nghìn năm chính khí vút trời biếc
Nhà Tống ba trăm năm cương thường
Dồn vào một vai Văn Thiên Tường
Cần chết mà chết, chết bất hủ
Đến nay sử xanh còn lừng hương.
Hoan Châu, hậu sinh Hồ Sĩ Tạo
Kính thuật văn này một lời điếu
Mây non Tản soi bóng sông Hồng
Rờ rỡ tinh trung vầng nhật chiếu.
               Nguyễn Văn Huyền dịch
 
Nguồn: In trong Tổng tập Văn học Việt Nam tập 19. NXB Khoa học Xã hội.