Vua Lê Hiển Tông
Lê Hiến Tông (1461-1504) là vua thứ 6 nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, tại ngôi từ năm 1497 đến 1504. Vua có tên húy là Lê Tranh, còn có tên khác là Huy, là con trưởng của vua Thánh Tông, sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ (1461). Mẹ là Trường Lạc Thánh Từ Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng, người ở hương Gia Mưu ngoại trang, huyện Tống Sơn (Thanh Hóa), con gái thứ hai của Trình quốc công Nguyễn Đức Trung.
Lê Tranh là con cầu tự ở am Từ Công (Từ Đạo Hạnh) trên núi Phật Tích, sinh ra dáng vẻ thiên tử, mũi cao, mặt rộng, vẻ người đứng đắn, đẹp đẽ khác thường, được Thánh Tông yêu quý lắm. Năm Quang Thuận thứ 3 - năm Nhâm Ngọ (1462), Tranh được lập làm Hoàng thái tử.
Vua cha tại ngôi tới 38 năm nên Thái tử ở ngôi Đông cũng lâu (37 năm), vì thế khi được lên nối ngôi, ông đã ở tuổi chín chắn và từng trải. Trong thời gian 7 năm cầm quyền, vua Lê Hiến Tông không mấy sáng tạo so với triều vua trước. Trước một vua cha là ngôi sao sáng chói thì ông chỉ nhận mình là người đi sau. Vả chăng chính vua Hiến Tông đã từng nói:
Thánh tổ ta đã gây dựng nên cơ đồ, vua cha ta đã sửa sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo giữ gìn nếp cũ và mở mang sự nhân chính ra cho sáng rõ công đức của ông cha ngày trước.
Sử gia Vũ Quỳnh, người gần cùng thời nhận xét: Vua thông minh, trí tuệ hơn người mà nhân từ, ôn hòa, không làm nghiêm trọng sự việc lâu. Thường khi tan chầu lui vào, lại đem các sĩ đại phu hỏi về chính sự hay dở, lấy lời nói dịu dàng, nét mặt vui tươi dỗ cho nói ra, cho nên biết hết tánh người dưới, phá hết sự che lấp. Kẻ thần hạ có lầm gì, chỉ răn quở qua loa, không nỡ đánh roi làm nhục. Cách cai trị nhàn hạ ung dung, chưa từng lộ ra lời nói, sắc mặt tức giận mà thiên hạ răm rắp theo lệnh.
Ông là người chú trọng đặc biệt đến việc làm thủy lợi, chăm sóc bảo vệ đê điều, đường sá. Mỗi xã cho đặt một xã trưởng chuyên trông coi việc nông trang. Cũng dưới thời vua Lê Hiến Tông, ông cho phép quân đội và công tượng thay phiên nhau tháng 6, tháng 10 chia một nửa về làm ruộng: Ông cũng chú tâm đến giáo dục quan lại chống thói quan liêu và tham nhũng...
Lê Hiến Tông trị vì 7 năm nhưng là ông vua cuối cùng của triều Lê Sơ còn giữ được những thành tựu từ thời Thái Tổ gây dựng. Trong thời gian này, đất nước yên ổn không loạn lạc.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” nhận xét về Lê Hiến Tông:
“Vua có thiên tư anh minh thông tuệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữa cơ đồ, thế mà ở ngôi không lâu, tiếc thay”.
Lê Hiến Tông cũng là ông vua đầu tiên của triều Lê có hướng trở về với đạo Phật: Ông cho xây dựng các điện Thượng Dương, Giám Trị, Đỗ Trị, Trường Sinh làm chỗ nghỉ ngơi, đọc sách và ăn chay. Tuy nhiên ông cũng không tránh được lời phê của sử thần là đã ham nữ sắc quá nhiều để đến nỗi bị bệnh nặng.
Ông mất ngày 23 tháng 5 năm Giáp Tý (1504), thọ 44 tuổi. Thụy hiệu do Lê Túc Tông đặt cho ông là Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm Thành Chương Hiếu Duệ hoàng đế.
Lê Hiến Tông có 6 hoàng tử, con trưởng là An Vương Tuân, con thứ hai là Uy Mục Đế Tuấn, con thứ ba là Tự Hoàng Thuần, con thứ tư là Thông Vương Dung, con thứ năm là Minh Vương Trị và con thứ 6 là Tư Vương Dưỡng.
Lời bàn:
Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có lời nhận xét về vua Lê Hiến Tông như sau: Nhà vua có thiên tư anh minh thông tuệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữa cơ đồ, thế mà ở ngôi không lâu, tiếc thay. Trước khi qua đời, vua Lê Hiến Tông đã để lại di chiếu nhường ngôi cho Lê Túc Tông (tức Lê Thuần), nhưng vua này lại yểu mệnh và từ đó nhà Hậu Lê (Lê Sơ) bước vào con đường suy vi. Bởi vua Lê Uy Mục là người tàn ác, vua Lê Tương Dực thì xa hoa trụy lạc, vua Lê Chiêu Tông thiếu sáng suốt. Cả ba vị vua đều không đủ năng lực nên quyền thần nổi lên nắm quyền và trăm họ rơi vào cảnh lầm than.
Mặc dù vậy, các sử gia đương thời đều thừa nhận rằng nhà Lê Sơ đã có công rất lớn đối với dân tộc và là một triều đại có thể nói là “được lòng dân” nhất trong số các triều đại phong kiến Việt Nam. Và điều quan trọng hơn thế là nhà Lê Sơ đã để lại cho hậu thế bài học vô cùng quý giá về công cuộc giữ nước và dựng nước.
Chuyện cảm động về vua Lê Hiến Tông và bát canh của thầy
Chuyện vua Lê Hiến Tông thăm thầy cũ, dù lên ngai vàng vẫn giữ đạo nghĩa, cùng thầy ăn bữa cơm quê giản dị trở thành bài học về phép tôn sư trọng đạo mà người thời nay cần học tập.
Vua Lê Hiến Tông (1461 – 1504) là vị vua thứ sáu nhà Hậu Lê, tại ngôi từ năm 1497-1504. Vua có tên húy Lê Tranh, còn có tên khác là Huy, con trưởng của vua Thánh Tông. Người đời truyền tụng Hiến Tông là vị vua thông minh, nhân từ và ôn hoà.
Dưới thời của ông, đất nước vẫn duy trì được sự thái bình, thịnh trị có từ thời vua cha Lê Thánh Tông. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi lại câu chuyện cảm động về đạo thầy trò trong một lần vua Lê Hiến Tông về thăm thầy cũ.
Đến cổng làng Châu Khê, nhà vua ra lệnh dừng kiệu và bước xuống đầu đường rẽ vào nhà thầy. Vua chỉ chọn 2 đến 3 cận thần cùng một vị quan sở tại tháp tùng vào nhà thầy giáo rồi ôn tồn nói với mọi người đi theo: "Hôm nay trẫm về đây để thăm thầy chứ không phải vi hành, công cán, vì vậy cho phép các khanh về nghỉ ở công quán".
Mọi người bái tạ nhà vua rồi đi vào các quán dịch. Ở đó, quan địa phương đã chuẩn bị mọi thứ chu đáo, có chăng đèn, kết hoa, bàn trà nước. Nhà vua đi bộ cùng viên quan trấn và mấy quan hầu cận tiến vào nhà thầy. Không trống phách, không nhạc nhã, không có tiếng hô dẹp đường.
Cụ Thượng thư già cùng các con cháu và giai nhân mũ áo chỉnh tề ra tận đầu thôn bày hương án nghênh tiếp nhà vua. Thấy thầy giáo, vua vội vàng đến gần cụ. Theo nghĩa vua tôi, cụ sụp lạy nhưng vua Lê Hiến Tông nhanh tay nâng vai thầy lên, lễ phép nói: "Xin lão tiên sinh bình thân để cho đệ tử không bị thất lễ".
Sau đó, quay lại với những người đang quỳ rạp hai bên đường, vua nhẹ nhàng bảo: "Cho tất cả các người đứng dậy cùng trẫm về nhà tôn sư", đồng thời nhắc lại rằng, ông đến đây để thăm thầy chứ không phải đi việc công cán, mọi nghi lễ chốn triều đình nên dùng vào lúc khác.
Ngôi nhà thầy Nguyễn Bảo giản dị, cổ kính và gọn gàng, đúng với phong thái của một bần nho trong sáng. Vua mời cụ ngồi lên sập giữa để mình đứng vấn an thầy.
Cụ Nguyễn Bảo giật mình: "Tâu bệ hạ, đâu lại có thể như thế được. Đạo thầy là nặng, song phép nước cao hơn, xin hoàng thượng cho lão phu này được đứng hầu. Người ngoài trông vào sao tiện ạ".
Đáp lại, nhà vua nhẹ nhàng nói: "Thưa tôn sư, họ đã biết mục đích của trẫm hôm nay rồi. Tôn sư cho phép đệ tử ngồi chung là đã quá lắm rồi"
Nói xong, nhà vua đỡ cụ xuống cùng ngồi đàm đạo. Vua hỏi thăm sức khoẻ và đời sống của thầy cùng gia đình, xin xem những bài thơ của thầy làm khi nhàn rỗi ở chốn thôn dã.
Người nhà của cụ giáo dâng trầu nước chỉ đứng ở sân dưới thềm, chuyển qua các thị vệ dâng lên cụ giáo và nhà vua. Vua Hiến Tông lại khoát tay: "Thôi để họ mang thẳng lên đây, chắc họ cũng muốn gần vua một chút. Âu cũng là cái lộc của lão tiên sinh đây".
Dụ Lăng thờ vua Lê Hiến Tông ở Thanh Hóa. Ảnh: Vietlandmarks.com
Cụ giáo nghẹn ngào: "Xin bái tạ đức vua. Thánh chỉ đã truyền, thần xin vâng mệnh".
Bữa cơm thầy trò chiều hôm đó diễn ra thân mật. Các con cụ đứng hầu từ xa ngắm thầy trò nhà vua đối ẩm với thứ rượu nếp quý quê nhà hương thơm sực nức, nghe thầy trò nhà vua vừa ăn vừa ngâm nga thơ phú.
Cụ giáo có lẽ còn vui hơn cả nhà vua, bởi lẽ ông có học trò ở ngôi tôn quý nhất nước vẫn mực thước thuỷ chung giữ đạo nghĩa thầy trò. Ông càng hài lòng vì học trò cũ của mình dẫu ngồi trên ngai vàng vẫn không quên gốc.
Nhà vua đặc biệt thưởng thức món canh cua quê kiểng, bất giác nói: "Thầy cho con ăn một bát canh này thật là niềm hạnh phúc. Hương vị cua đồng quê nhà ít có thức ăn nào sánh tày, quả là ngon".
Theo dân gian lưu truyền lại, về sau, vua nhớ món canh cua đồng đến nỗi dân phải tiến cua đồng về kinh để vua ngự thiện. Cũng vì thế dân gian ở đây mới có câu ca: "Canh cua nấu cải thêm gừng/ Xưa nay vua chúa đã từng khen ngon".
Nguồn: danviet.vn