273 lượt xem

Lê Hữu Trác

Lê Hữu Trác

Danh y Lê Hữu Trác, còn được biết tới với biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông, được mệnh danh là vị Đại danh y trong bầu trời y học Việt Nam. Những thành tựu của ông đã góp phần cho sự phát triển của nền y học Việt Nam. Dù trải qua hàng trăm năm vẫn vẹn nguyên giá trị và tính ứng dụng. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp và thành tựu của vị Đại danh y này.

Danh y Lê Hữu Trác còn được biết tới với đại danh Hải Thượng Lãn Ông
(Nguồn: Sưu tập)

 

Tiểu sử của Danh y Lê Hữu Trác

Danh y Lê Hữu Trác (1720 – 1791) là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên, huyện Yên Mỹ). Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 (tức năm Canh Ngọ). Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân (theo “Hải Dương phong vật chí”) nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông.

Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông (có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng) là do sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ (Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng). Cũng có tài liệu cho rằng, chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này.

Tượng đài của Danh y tại Hoa viên Nghĩa trang Chánh Phú Hoà
(Nguồn: Sưu tập)

 

Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy. Gia đình ông vốn nổi tiếng bởi truyền thống đỗ đạt khoa bảng, rất nhiều người làm quan to trong triều đình. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê.

Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý. Tuy nhiên, không lâu sau đó vào năm ông 19 tuổi, cha ông mất (năm 1739) nên phải về nhà chịu tang, vừa lo kế nghiệp gia đình vừa lo hậu sự cho cha. 

Một năm sau đó (tức 1740), giữa thời buổi loạn lạc, Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn tranh giành quyền lực, muôn dân lầm than, bạo loạn xảy ra khắp nơi ông đã quyết định gác lại sách vở, luyện tập võ thuật và binh thư, xung phong vào quân ngũ. Chỉ ít lâu sau, ông nhanh chóng nhận ra đây không phải là lẽ sống mà mình theo đuổi nên dù đã được đề bạt nhiều lần, ông kiên quyết từ chối. Cho tới năm 1746, sau khi người anh cả mất tại quê mẹ là huyện Hương Sơn, Nghệ An (nay là Hà Tĩnh) ông đã viện cớ xin rời khỏi quân ngũ về chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi.

Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương (nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An). Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm.

Trong suốt 1 năm chữa bệnh tại đây, Lê Hữu Trác thường hay nghiên cứu sách y học “Phùng thị cẩm nang” của Trung Hoa. Với trí thông minh và khả năng hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhanh chóng nắm bắt được chân lý trong sách và nhen nhóm đam mê học về y thuật. Trần Độc nhận thấy sự tinh thông và quyết tâm của ông, nên bày tỏ mong muốn truyền nghề.

Sự nghiệp của danh y Lê Hữu Trác

Ở tuổi 30, danh y Lê Hữu Trác trở lại quê mẹ ở Hương Sơn, khước từ lời mời của chúa Trịnh quyết ở lại đây chuyên tâm chữa bệnh cứu người, lấy tên Hải Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên tại đây neo người bầu bạn, lại không có nhiều thầy giỏi để ông học hỏi, Lê Hữu Trác quyết định lên kinh đô học tập, mong tìm kiếm thêm kiến thức y học mênh mông. 

Sau khoảng thời gian học tập, ông trở lại quê mẹ để chữa bệnh cứu người. Với tài năng học rộng, chẩn bệnh giỏi, bốc thuốc hay, lại không màng tới tiền tài danh lợi, ông đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người dân. Có người bệnh nhiều năm không khỏi ông cũng chữa được. Chỉ qua một thập kỷ miệt mài cống hiến, tên tuổi của ông nhanh chóng vang danh khắp vùng Hương Sơn và đến tận kinh thành. 

Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ. Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính. Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” (nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù). Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức.

Năm 1782, khi đã 62 tuổi, ông nhận lệnh Chúa Trịnh hồi kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Vốn được lòng Trịnh Sâm, ông bị không ít ngự y trong thành ghen ghét. Hải Thượng Lãn Ông vốn không hề nảy sinh thù ghét, chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và mau chóng thoát khỏi chốn kinh thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê.

Di sản y học của Danh y Hải Thượng Lãn ông

Trong suốt những năm làm thầy thuốc và đào tạo học trò, Danh y Lê Hữu Trác vẫn luôn mong muốn truyền lại y lý cho thế hệ sau thông qua những cuốn sách. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn, ghi chép và chắt lọc lại những chân lý ông đã lĩnh hội được từ các đại danh y đời trước và mất gần 10 năm (1760 – 1770) để hoàn thành. Đây là cuốn sách chứa đựng những gì tinh túy nhất trong sự nghiệp của người thầy thuốc vĩ đại này và là tài sản vô giá của nền y học Việt Nam. 

Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn suốt hàng chục năm
(Nguồn: Sưu tập)

 

Toàn bộ cuốn sách bao gồm 28 tập, 66 quyển về các chuyên ngành nội khoa, sản khoa, phụ khoa, da liễu, nhãn khoa. Đồng thời ông còn phê phán và chỉ ra những điểm không phù hợp khi áp dụng trong điều trị cho người Việt Nam. Trong gần 20 năm sau đó, ông vẫn tiếp tục biên soạn và cho ra đời nhiều tập sách quý giá nữa như “Y hải cầu nguyên” (1782), “Thượng kinh ký sự” (1783) trong đó phê phán nhiều thói quen xa hoa, những điều “mắt thấy tai nghe” khi ông lên kinh khám bệnh cho Thái tử, “Vận khí bí điển” (1786).

Hải Thượng Lãn Ông qua đời hưởng thọ 71 tuổi vào ngày 15 tháng 1 âm năm 1791. Để tưởng nhớ và tri ân công lao của ông, cứ vào ngày này hằng năm, người dân và người làm nghề y lại cùng nhau tề tựu tại Nhà tưởng niệm Đại danh y ở Liêu Xá dâng hương.

Dâng hương tưởng niệm danh y Lê Hữu Trác
(Nguồn: Sưu tập)

 

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác chính là người thầy vĩ đại truyền cảm hứng không nhỏ tới các thế hệ trong tương lai. Đồng thời để lại kho tàng y học vô giá, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của y học nước nhà. Mong rằng qua bài viết trên đây, bạn đọc đã có thêm những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của vị Thánh Y này.

Phần mở rộng:

Vùng đất xã Liêu Xá, huyện Đường Hào xưa, nay là thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nổi tiếng "địa linh nhân kiệt". Nơi đây đã sinh ra và nuôi dưỡng dòng họ Lê Hữu nổi tiếng với 6 tiến sĩ khoa bảng và đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

Vùng đất xã Liêu Xá, huyện Đường Hào xưa, nay là thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nổi tiếng "địa linh nhân kiệt". Nơi đây đã sinh ra và nuôi dưỡng dòng họ Lê Hữu nổi tiếng với 6 tiến sĩ khoa bảng và đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

Ngôi mộ thiên táng

Theo gia phả dòng họ Lê Hữu, Lê Hữu Dụng là đời thứ bảy, làm tư trưởng có quen với một người ở xã Bình Lao, huyện Cẩm Giàng, hiệu là Đồ Cẩm, có hiểu biết về địa lý.

Nhân một lần Đồ Cẩm đến nhà bạn chơi, thấy cảnh nhà bần bạc liền hỏi nguyên cớ. Lê Hữu Dụng tỏ vẻ băn khoăn: "Dòng họ nhà tôi mấy đời nay học hành cũng khá nhưng đi thi lại không đỗ đạt. Không biết có phải do mồ mả?". Nghe thế, Đồ Cẩm nhận lời: "Sẽ tìm đất cải táng ngôi mộ tổ, sau này tất sẽ phú quý".

Y hẹn, Đồ Cẩm quay trở lại nhà bạn. Vì chưa mua được tiểu sành, Đồ Cẩm bảo chỉ cần lấy cái nồi đất miệng rộng ("thổ oa đại khẩu") thay cho tiểu sành cũng được, rồi cùng nhau ra đồng cải táng ngôi mộ cho cụ Vũ Thị Yêm, vợ cụ tổ đời thứ sáu Lê Tất Thắng. Khi mọi người chuẩn bị mang hài cốt đến nơi cải táng thì trời bắt đầu nổi gió, mây đen kéo đến, mưa như trút nước nên không thể đi chôn được. Mọi người bèn bàn với nhau sẽ để tạm hài cốt ở ria lũy tre làng để sớm mai đem chôn.

Thế nhưng sáng hôm sau, khi mọi người ra đến nơi thì thấy đất đã lấp kín nồi hài cốt. Đồ Cẩm bảo: "Ngôi mộ đã được đặt vào nơi có thế đất hình Thiên mã, có ngựa lớn, ngựa nhỏ chầu về, trong thì có Thượng thư án, ngoài có Kim Quy ngưỡng ngọa. Từ nay, dòng họ sẽ đinh tài lưỡng vượng, học hành đỗ đạt cao, trở thành dòng họ quý tộc chí bách dư niên" (có nghĩa sẽ kết phát trên một trăm năm).

Dòng họ khoa bảng

Lời tiên tri của ông Đồ Cẩm đã sớm trở thành hiện thực khi người con cả của Lê Hữu Dụng là Lê Hữu Thời đi thi Hương đỗ nhất Cử, thi Hội đỗ Tam trường, được bổ làm tri huyện huyện Chí Linh. Người con thứ tư Lê Hữu Danh (1642 - ?) đỗ Nhị Giáp Tiến sĩ (tức Hoàng Giáp) khoa Canh Tuất (1670). Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ. Khi mất, ông được tặng chức Tả thị lang, tước Văn Uyên bá.

Kế đó, ba người con của Lê Hữu Danh là Lê Hữu Hỷ, Lê Hữu Mưu, Lê Hữu Kiều và hai người cháu nội là Lê Trọng Tín, Lê Hữu Dụ (*) đều đỗ tiến sĩ. Đặc biệt, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (con Tiến sĩ Lê Hữu Mưu) được suy tôn là đại danh y Việt Nam. Những bài thuốc và quan điểm chữa bệnh cứu người của ông vẫn còn sáng mãi với thời gian.

Như vậy, trong lịch sử, dòng họ Lê Hữu ở Liêu Xá đã đóng góp cho dân tộc 6 vị tiến sĩ, 5 giải nguyên, 20 cử nhân, 20 tú tài, 1 quận công, 1 tước hầu... Đúng là dòng họ quý tộc "chí bách dư niên".

(*) Trong một số tài liệu ghi là Lê Hữu Dụng, nhưng theo gia phả họ Lê thì ông tên là Lê Hữu Dụ.

Nguồn: tapchidongy.org