Nhờ tài ứng biến, thông minh và ứng xử khéo kéo, Mạc Đĩnh Chi từng khiến triều đình phong kiến phương Bắc phải phục tài, phong làm Trạng Nguyên.
Mạc Đĩnh Chi – Từ cậu bé bán củi nghèo thành lưỡng quốc trạng nguyên lừng lẫy sử Việt
Canh Hoạch: Ngôi làng có hai cậu cháu đỗ Trạng nguyên, làm rạng danh sử sách
Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu – Trung thần không thờ hai vua
Sinh thời Đĩnh Chi là người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng diện mạo lại rất xấu xí. Vì sự xấu xí đó mà suýt chút nữa con đường quan lộ của ông bị hủy hoại. Tuy vậy, cũng nhờ thế mà trên thi đàn văn học Việt Nam có thêm một bài phú vô cùng đặc sắc và hậu thế cũng được biết thêm nhiều giai thoại thú vị về ông.
Theo “Lịch triều hiến chương loại chí”, Mạc Đĩnh Chi là người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Đông (nay là tỉnh Hải Dương). Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, Mạc Đĩnh Chi thi đỗ trạng nguyên.
Một bài phú cứu nguy cho cả con đường quan lộ
Truyện kể rằng sau khi đỗ Trạng nguyên, Mạc Đĩnh Chi có vào yết kiến triều đình, tuy nhiên Hoàng đế Trần Anh Tông thấy dung mạo ông xấu xí quá, nên không muốn trọng dụng. Để thể hiện phẩm đức và chí hướng của mình, Mạc Đĩnh Chi bèn khảng khái cảm tác bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) mà dâng lên Hoàng thượng.
Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh cao, không loài hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn; vả lại sen này còn được trồng trong giếng ngọc nữa thì lại càng cao quý biết bao. Đĩnh Chi coi mình giống như sen, dù có phải ở vào hoàn cảnh ô trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết thanh cao, huống chi lại ở vào một thời thế tốt đẹp, nếu vua là đấng thánh minh thì những người như ông càng thêm cao quý và được trọng vọng biết mấy. Sen quý nhưng phải có người sành thì mới biết thưởng thức.
Dưới đây là bài phú “Ngọc tỉnh liên” – Hoa sen trong giếng ngọc, dịch ra văn Nôm:
“Đương khi lửa hạ, khách cao trai thư thả, lời dòng nước biếc, vịnh khúc phù dung; đến bến ao trong, ngâm câu nhạc phủ. Bỗng bóng ai, áo trắng mũ vàng, phất phơ điệu cốt xương tiên, hớn hở tinh thần khác tục. Khách hỏi: từ đâu mà lại? Thưa rằng: từ núi Hoa San. Khách kéo ghế mời ngồi vồn vã, này dưa ngon quả quý bày ra. Chuyện gần thôi lại chuyện xa, nói cười lơi lả, tiệc hoa tơi bời.
Chuyện xong, mới hỏi khách rằng: khách đây quân tử ái liên chăng là? Tiện đây sẵn có giống nhà, vẫn từng gìn giữ nâng niu hoa vàng. Nọ đào lý bỉ thô còn kém, kể trúc mai đơn lạnh còn xa; nào phải giống tăng phòng câu kỷ, nào phải phường lạc thổ mẫu đơn, cũng chẳng phải đông ly đào cúc, mà cũng không cửu uyển linh lan; chính là một giống sen thần, đầu non núi Họa giếng vàng sinh ra. Khách nghe nói: khen thay quý lạ! Phải chăng giống hoa cao mười trượng, ngó cong như thuyền, lạnh giá như băng, ngọt ngon tựa mật, xưa từng nghe tiếng, nay được thực trông. Nghe qua đạo sĩ vui lòng, hoa trong tay áo giữ liền tặng đưa. Khách trông thấy trong lòng hồi hộp, bút ngũ lăng tay thảo nên ca. Ca rằng:
Thủy tinh làm mái cung đình,
Lưu ly lạc để nên hình cung môn.
Pha lê nát nhỏ làm bùn,
Minh châu làm nóc trên cành tưới cây.
Hương thơm bay thấu từng mây,
Bích thiên âu cũng mê say tấc lòng.
Quế xanh khóc vụng tủi thầm,
Tố Nga luống những mười phần giận thân.
Cỏ dao hái chốn Phương tân,
Sông Tương trông ngóng mỹ nhân dãi dầu.
Giữa dòng lơ lửng vì đâu?
Non sông đất cũ cớ sao chẳng về?
Đành nơi lưu lạc quản gì,
Thuyền quyên lỡ bước lắm bề gian truân.
Một lòng trung chính nghĩa nhân.
Lo chi mưa gió, phong trần, tuyết sương!
Chỉn e lạt phấn phai hương,
Tháng ngày thấm thoắt, mỹ nhân ai hoài.
Nghe xong, đạo sĩ than rằng: nói chi ai oán thiết tha! Kìa chẳng xem đóa tử vi nở trên ao phượng, hoa thược dược mọc trước bệ vàng, cũng là địa vị thanh cao, thanh danh hiển hách, ơn trên thánh chúa, mưa móc dồi dào. Vội chi tủi phận hờn duyên, nước non lẩn thẩn toan bề đi đâu? Khách nghe nói như tình như cảm, đem lòng riêng kính mộ xiết bao. Khúc trai đình tay tiên đề vịnh, thơ phong đầu giọng ngọc ngâm nga. Nỗi lòng xin giải gần xa, kính dâng một phú hải hà xét xoi”.
Bài phú của Mạc Đĩnh Chi vừa được đọc lên xong, Vua Trần Anh Tông đã vỗ đùi, hết lời khen ngợi, sau đó lập tức phong cho Mạc Đĩnh Chi danh vị “Thái học sinh dũng thủ”, lại sung cho ông thêm chức: “Nội thư gia”. Đến thời vua Trần Minh Tông, Mạc Đĩnh Chi càng được triều đình tin dùng và hậu đãi.
Mang chuông đi đánh xứ người
“Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi: Năm 1308, Sứ thần nhà Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang báo tin Vũ Tông lên ngôi. Vua Trần bèn sai Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên triều kiến và chúc mừng. Thời điểm ấy, việc Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên được dự báo là “đầy nguy hiểm”, bởi người phương Bắc vẫn chưa quên nỗi đau thất bại trong ba cuộc xâm lược trước đây.
Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên ban đầu rất bị khinh thường vì vẻ ngoài thấp bé, xấu xí. Ở buổi tiếp kiến đầu tiên tại kinh đô Yên Kinh, vua Nguyên ra câu đối thử tài Mạc Đĩnh Chi:
“Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố”
Tạm dịch là:
“Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy mặt trăng”.
Ý nói nhà Nguyên lớn mạnh, luôn dễ dàng tiêu diệt các tiểu quốc như Đại Việt.
Mạc Đĩnh Chi liền ứng đối lại:
“Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô”
Tạm dịch là:
“Mặt trăng là cung, sao là đạn, hoàng hôn bắn rụng mặt trời”.
Ý nói rằng nước nhỏ cũng có thể đánh bại quân đội nước lớn khi thời cơ đến.
Vua Nguyên nghe xong tức lắm, nhưng cũng phải khen Mạc Đĩnh Chi đối hay, đối chuẩn.
Một hôm khác, viên tể tướng nhà Nguyên mời ông vào phủ dự tiệc trà. Lúc ấy đương hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ có bức trướng mỏng thêu hình con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc. Đĩnh Chi giả vờ ngỡ đây là con chim sẻ thực, vội chạy đến xem.
Người Nguyên cười ồ, cho là người phương xa thô lậu. Thấy vậy, Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi tại sao.
Đĩnh Chi trả lời:
“Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của Tể tướng lại thêu cành trúc với chim sẻ. Trúc là bậc quân tử, chim sẻ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng thêu như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy. Tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân vậy”. Nghe xong, mọi người đều hết lòng phục tài Đĩnh Chi và không ai còn dám cười ông nữa.
Trở thành Lưỡng quốc Trạng Nguyên nhờ tinh ý, lẹ mắt
Thời gian Mạc Đĩnh Chi đi sứ, trong một buổi chầu có người nước ngoài dâng hai cây quạt quý lên tặng vua Nguyên. Nhân có cả sứ thần Cao Ly ở đó, vua Nguyên bèn mời Mạc Đĩnh Chi và sứ thần Cao Ly cùng làm thơ vịnh đề lên quạt.
Lúc này Mạc Đĩnh Chi rất bất ngờ, do không chuẩn bị trước nên có phần “bí” ý. Ông quay sang bên sứ thần Cao Ly, nhìn vào thế bút viết của sứ thần nước bạn mà đoán được ra ông này đang viết:
“Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công;
Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề”
Tạm dịch:
Nắng nôi oi ả người tựa Y Doãn, Chu Công (Y Doãn một tướng giỏi đời nhà Thương, Chu Công một người hiền ở đời nhà Chu).
Rét mướt căm căm ngươi là Bá Di, Thúc Tề (Bá Di, Thúc Tề: hai người con của vua Trụ, Vũ Vương diệt nhà Ân lập nhà Chu. Hai anh em ở ẩn trên núi, cuối cùng chết đói).
Mạc Đĩnh Chi có ý tưởng rồi, bèn lập tức viết:
“Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho;
Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu;
Y, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thi phù”
Tạm dịch là:
“Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho;
Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo;
Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi như thế ru!”
Xét về ý tứ, bài vịnh của Mạc Đĩnh Chi cũng có ý tương tự bài vịnh của sứ Cao Ly nhưng lại “đắt” hơn ở việc trích dẫn được một câu trong sách Luận ngữ, có nghĩa: “Ai dùng ta thì ta làm, ai không dùng ta thì ta để đó. Điều ấy chỉ người với ta mới có được thôi”.
Cảm phục trước văn tài của Mạc Đĩnh Chi, vua Nguyên bèn phê lên chiếc quạt mà Đĩnh Chi vừa đề thơ vịnh bốn chữ: “Lưỡng quốc Trạng Nguyên”, rồi ban tặng cho ông.
Tranh về giai thoại Mạc Đĩnh Chi. (Nguồn: sưu tầm)
Một tấm gương thanh liêm chính trực, từng làm rể trên đất Cao Ly
Sách “Đại Việt Sử ký Toàn thư” có ghi lại: Đĩnh Chi là người liêm khiết, sống rất đạm bạc. Vua rất hiểu ông, sai người ban đêm đem 10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Hôm sau, Đĩnh Chi vào chầu, tâu vua hay chuyện đó. Vua bảo:
“Không ai đến nhận, cho khanh lấy mà tiêu”.
Thời vua Hiến Tông, Mạc Đĩnh Chi làm quan đến chức “Nhập nội hành khiển Hữu ty lang trung”, rồi sau lại được thăng lên chức “Tả ty lang trung”. Trong thời gian ở Yên Kinh – nước Nguyên, ông có kết thân với sứ thần Cao Ly. Mến mộ tài năng của Mạc Đĩnh Chi, vị sứ thần này mời ông sang Cao Ly chơi và gả người cháu gái xinh đẹp của mình cho ông.
Người thiếp này có sinh hạ một con gái, một con trai với Mạc Đĩnh Chi. Sau này hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi ở lại Cao Ly và lập ra một dòng tộc tại đó. Trong tờ An Nam tạp chí, số 4 năm 1926 từng đăng bài của học giả Lê Khắc Hòe với tiêu đề: “Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi”.
Hậu duệ xưng đế, lời tiên tri ứng nghiệm
Tương truyền sau khi Mạc Đĩnh Chi ứng đối với hình ảnh “bắn rụng mặt trời” trước bá quan văn võ nhà Nguyên trong lần tiếp kiến đầu tiên tại kinh đô Yên Kinh, có người đã tiên đoán:
“Hậu duệ của người này sau ắt sẽ tự lập làm vua”.
Quả đúng như vậy, sau này cháu bảy đời của Mạc Đĩnh Chi là Mạc Đăng Dung đã lật đổ vua Lê để lập ra nhà Mạc. Trong “Đại Việt Sử ký Toàn thư” có viết:
“Đăng Dung là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (tức là xã Long Động, huyện Chí Linh), tiên tổ Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên triều Trần, làm quan đến chức Tả bộc xạ.
Đĩnh Chi sinh ra Cao, Cao sinh ra Thúy, Thúy sinh ra Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà rồi sinh ra Bình, Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Hịch, Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân người cùng xã, sinh được ba con trai, con trưởng là Đăng Dung”.
Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung truy tôn Mạc Đĩnh Chi là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế. Nhà Mạc tồn tại trong 150 năm, trải qua 4 đời vua.
Đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở quê hương (nguồn: sưu tầm)
Lời bàn:
Thói thường kẻ có tài mà không được trọng dụng thì dễ sinh ra bất mãn, Mạc Đĩnh Chi thân là đệ nhất Trạng Nguyên mà ngay trong buổi đầu vào yết kiến Quân vương đã bị triều đình tỏ ý không dùng rồi! Tuy vậy ông vẫn “dĩ lý phục nhân” – lấy đạo lý mà thu phục lòng người, lại khéo vận dụng trí huệ và lễ tiết để bày tỏ phẩm đức cao quý của mình trước vua Trần Anh Tông, đó chính là biểu hiện của bậc thượng sỹ: bao dung, lễ độ, khiêm nhường, nhất tâm thuần Thiện, ông quả như “sen trong giếng ngọc” vậy!
Đĩnh Chi đi sứ nào đâu có gặp thời, bởi trước đó Đại Việt từng ba lần đánh tan quân Nguyên, thiết nghĩ chẳng cần bàn thêm cũng đủ nhận ra ông ta mang trên vai gánh nặng ngàn cân mà sinh mệnh thì như đang treo trên sợi tóc! Vậy mà bao nhiêu lần triều thần nhà Nguyên thử thách là bấy nhiêu lần Mạc Đĩnh Chi từ tốn vượt qua.
Dân gian vẫn thường ví von: “Vàng thì thử lửa thử than, chuông hay thử tiếng, người ngoan thử lời” Đĩnh Chi kia khác nào kẻ “Mang chuông đi đánh xứ người”, mấy chuyện kiểu như: “vàng thử lửa, chuông thử tiếng, người thử lời” ấy, ông đều kinh qua cả mà chẳng chút bận lòng, không những thế, tài đại sứ bang giao của Mạc Đĩnh Chi còn để lại giai thoại và tiếng thơm cho muôn đời sau, đây chính là biểu hiện của bậc đại trí, đại Nhẫn.
Đĩnh Chi làm quan lớn chỉ xếp sau hàng Tể tướng, Công hầu mà vẫn một đời thanh liêm đạm bạc, thấy vàng rơi trước cửa nhà mình còn tới bẩm tấu đức Quân vương thì nào đâu có cái chuyện lợi dụng chức quyền mà mưu đoạt của dân, tham ô tham nhũng. Than ôi, hay cho câu: “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà”! Hỏi ai khôn ngoan như Mạc Đĩnh Chi? Hỏi ai thật thà như Mạc Đĩnh Chi? Ông chính là gương sáng thuần Chân vậy.
Ôn chuyện cũ, ngẫm thời mới: Nếu những đấng quản dân ai ai cũng được vài phần như Mạc Đĩnh Chi thì lo gì giang sơn không cường thịnh, xã tắc chẳng vững bền, các nước lân bang cũng bội phần vị nể. Có hay không vậy?
Lưỡng quốc trạng nguyên và câu đố chết người
Khi đi sứ, Mạc Đĩnh Chi bị triều đình nhà Nguyên coi thường. Tuy nhiên, nhờ tài ứng đối nhanh nhạy, ông không những thoát chết mà còn được phong "Lưỡng quốc trạng nguyên".
"Há rằng trống rỗng bất tài
Thuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay.
Nếu ta giữ mực thẳng ngay.
Mưa sa gió táp xem nay cũng thường".
Những câu văn trong bài phú Ngọc tỉnh liên (Bông sen trong giếng ngọc) gắn liền vị trạng nguyên nổi tiếng tài năng nhưng xấu xí trong lịch sử khoa cử nước ta – Mạc Đĩnh Chi.
Theo cuốn Danh nhân Hà Nội do giáo sư Vũ Khiêu biên soạn, vị "Lưỡng quốc trạng nguyên" này sinh năm 1280 ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông tên tự là Tiết Phu. Từ nhỏ, ông đã thông minh hơn người, có tinh thần tự học cao và từng theo học Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.
Trong Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: “Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu... gồm 20 người, đều được dùng cho đời”.
Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng qua những câu chuyện đi sứ. Ảnh minh họa: Truyện xưa tích cũ.
Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông, triều đình mở khoa thi, Mạc Đĩnh Chi đỗ trạng nguyên. Ban đầu, nhà vua chê ông thấp bé, xấu xí. Vị trạng nguyên 24 tuổi bèn làm bài phú Ngọc tĩnh liên, tự ví mình như sen.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí do Phan Huy Chú biên soạn, vua Anh Tông xem xong, thán phục trước tài văn thơ của Mạc Đĩnh Chi, thăng ông làm Thái học sinh dũng thủ, sung chức Nội thư gia.
4 năm sau, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên mừng vua Nguyên Vũ Tông lên ngôi. Tại thời điểm đó, quan hệ giữa hai triều đình không mấy ôn hòa nên sứ thần thường bị làm khó.
Tuy nhiên, trong hoạt động bang giao, vị trạng nguyên trẻ tuổi của nước ta đã chứng tỏ được tài năng, khí phách.
Chuyện kể rằng, trong buổi tiếp kiến đầu tiên, thấy sứ thần Đại Việt nhỏ bé, người Nguyên tỏ ý khinh thường bèn ra câu đối: “Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố” (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vầng trăng – hàm ý nước lớn đủ sức thâu tóm nước nhỏ).
Mạc Đĩnh Chi bình tĩnh đối đáp: “Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô” (Trăng là cung, sao là đạn, chiều tới bắn rơi Mặt trời).
Dù tức giận, vua Nguyên vẫn phải thừa nhận câu đối của ông rất hay.
Cũng trong lần đi sứ này, nhờ tài ứng đối nhanh nhạy, Mạc Đĩnh Chi được vua Nguyên thán phục, tự tay hạ bút phong "Lưỡng quốc trạng nguyên". Trong lịch sử bang giao hai nước, ông là người duy nhất nhận danh hiệu này.
Những chuyến đi sứ của vị trạng nguyên lỗi lạc cũng để lại nhiều giai thoại đặc sắc.
Tương truyền, khi sứ bộ Đại Việt cáo biệt triều đình nhà Nguyên để về nước, Mạc Đĩnh Chi nhận một câu đố hiểm hóc mà chỉ cần trả lời sai, ông chắc chắn mất mạng.
Họ đố: “Có một chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và cha mình (quân, sư, phụ) bơi đến giữa sông chẳng may gặp sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy, ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai?”.
Rõ ràng, đây là một trường hợp khó chu toàn trung, hiếu, nghĩa. Trước nguy cơ bị xử tử, tác giả Ngọc tỉnh liên không chút nao núng đưa ra đáp án thích hợp nhất.
“Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải vội vã nhảy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần gặp ai trước thì thần cứu người ấy trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay cha mình”, ông nói.
Câu trả lời rất chuẩn này không chỉ thể hiện sự nhanh trí mà còn cho thấy thái độ bình tĩnh, gặp nguy không loạn của trạng nguyên nước ta.
Ngoài ra, liên quan câu chuyện đi sứ, chuyện kể rằng, sứ thần Cao Ly mến mộ tài năng, đức độ của sứ thần Đại Việt trẻ tuổi nên mời Mạc Đĩnh Chi qua Cao Ly chơi và gả cháu gái cho ông. Vị thiếp này sinh một nam, một nữ.
Sau này, ông Mạc Văn Kết, hậu duệ Lưỡng quốc trạng nguyên xác minh câu chuyện.
Mạc Đĩnh Chi làm quan dưới 3 triều vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiển Tông. Nhờ tài năng, tính ngay thẳng, liêm khiết, ông được vua nhà Trần trọng dụng, hậu đãi.
Theo các nhà sử học, trong số 46 vị trạng nguyên thời phong kiến nước ta, Mạc Đĩnh Chi là một trong số những người được dân chúng khâm phục và ca tụng đồng thời sáng tạo nhiều giai thoại giàu trí tuệ nhất.
Zingnews.vn