208 lượt xem

NGUYỄN HIẾN LÊ - KỲ 1

Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là người được giới trí thức và nhân dân lao động kính trọng vì nhân cách cao quý, cuộc sống thanh bạch, học vấn uyên bác và hiệu qủa lao động hiếm thấy.

Trong “Lời mở đầu” tác phẩm “Đời viết văn của tôi” Nguyễn Hiến Lê đã viết: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời. Tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT”. Nguyễn Hiến Lê trí tuệ bậc Thầy, ngọn đèn văn hóa, sao sáng trời Nam. Cuộc đời và di sản của Nguyễn Hiến Lê là mẫu mực nhân cách người hiền còn mãi với thời gian.

Nguyễn Hiến Lê cuộc đời và di sản

Nguyễn Hiến Lê tự là Lộc Đình, sinh ngày 8.1.1912 (nhằm ngày 20 tháng 11 năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu) quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây nay thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây. Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Cha, mẹ và bác ruột của ông đều giữ được truyền thống của tổ tiên mấy đời trước, săn sóc sự học của ông rất chu đáo. Ông thuở nhỏ học ở trường Yên Phụ, trường Bưởi. Năm 1934, sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội, ông vào làm việc tại Sở Thủy Lợi ở miền Tây Nam Bộ. Năm 1937, ông cưới vợ là bà Trịnh Thị Tuệ và đổi về làm việc ở Sài Gòn cho đến năm 1945. Trong thời gian này, ông trau dồi tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp, tự học tiếng Anh. và đã viết được trên ngàn trang sách để luyện văn. Mùa đông năm 1945 đến mùa xuân 1947, ông tản cư ở Tân Thạnh, Long Xuyên và học đông y. Năm 1947, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1953, ông thôi dạy học, chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản, viết sách và viết báo.

Nguyễn Hiến Lê học và viết liên tục và bền bỉ, có hướng rõ rệt, tập trung năng lực, không để phí thì giờ, hi sinh việc xuất bản để dành thời gian viết sách. Trong cuộc đời cầm bút của mình, ông đã viết được 120 bộ sách về nhiều lĩnh vực,. Sức lao động của ông hiếm thấy với hơn 30.000 trang chia cho 33 năm, trung bình mỗi năm 900 trang. Tác phẩm của ông là những đóng góp lớn cho văn hoá Việt Nam, thuộc nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ, triết học, giáo dục, gương danh nhân, chính trị, kinh tế, du kí, dịch tiểu thuyết, tiểu luận phê bình,…

120 tác phẩm của ông có khoảng 80 % là tác phẩm phổ biến rộng cho mọi giới (tiêu biểu nhất là loại sách học làm người, gương danh nhân, tổ chức công việc theo khoa học), còn lại khoảng 20% là sách chuyên khảo có giá trị đặc biệt về học thuật (thuộc lĩnh vực văn học, triết học, sử, cổ văn Trung Quốc). Tác phẩm xếp theo năm xuất bản, bao gồm:

• Tổ chức công việc theo khoa học – 1949
• Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) – 1951
• Kim chỉ nam của học sinh – 1951
• Luyện tình cảm (dịch F. Thomas) – 1951• Để hiểu văn phạm – 1952
• Bảy bước đến thành công (dịch G. Byron) – 1952
• Tổ chức gia đình – 1953
• Thế hệ ngày mai – 1953
• Nghệ thuật nói trước công chúng – 1953
• Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười – 1954
• Săn sóc sự học của con em – 1954
• Hiệu năng – 1954
• Tự học để thành công – 1954
• Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) – 1955
• Lịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) – 1955
• Sống 24 giờ một ngày (dịch Arnold Bennett) – 1955
• Quẳng gánh lo đi và vui sống (dịch Dale Carnegie) – 1955
• Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) – 1956
• Nghề viết văn – 1956
• Muốn giỏi toán hình học phẳng – 1956
• Bí quyết thi đậu – 1956
• Đông Kinh Nghĩa Thục – 1956
• Rèn nghị lực – 1956
• Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) – 1957
• Luyện văn I (1953), II & III (1957)
• Muốn giỏi toán đại số – 1958
• Thời mới dạy con theo lối mới – 1958
• Gương danh nhân – 1959
• Muốn giỏi toán hình học không gian – 1959
• Gương hi sinh – 1962
• Hương sắc trong vườn văn (2 quyển) – 1962
• Tương lai trong tay ta – 1962
• Kiếp người (dịch Somerset Maugham) – 1962
• Xung đột trong đời sống quốc tế – 1962
• Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (viết với T. V. Chình) – 1963
• Sống đẹp – 1964
• Gương kiên nhẫn – 1964
• Một niềm tin – 1965
• Luyện lý trí – 1965
• Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Giản Chi) – 1965
• Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) – 1965
• Sống đời sống mới (dịch Powers) – 1965
• Cổ văn Trung Quốc – 1966
• Gương chiến đấu – 1966
• Tìm hiểu con chúng ta – 1966
• Xây dựng hạnh phúc (dịch Aldous Huxley) – 1966
• Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) – 1967
• Lời khuyên thanh niên – 1967
• Tay trắng làm nên – 1967
• Vấn đề xây dựng văn hoá – 1967
• Tổ chức công việc làm ăn – 1967
• Chiến tranh và hòa bình (dịch Lev Nikolayevich Tolstoy) – 1968
• Chiến Quốc sách (viết chung với Giản Chi) -1968
• Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) – 1968
• Đế Thiên Đế Thích – 1968
• Bài học Israel – 1968
• 40 gương thành công – 1968
• Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch André Maurois) – 1968
• Sống 365 ngày một năm – 1968
• Những cuộc đời ngoại hạng – 1969
• Bán đảo Ả Rập – 1969
• Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Alan Paton) – 1969
• Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) – 1969
• Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) – 1969
• Con đường lập thân (dịch Ennever) – 1969
• Sử ký Tư Mã Thiên (viết chung với Giản Chi) – 1970
• Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) – 1970
• Tô Đông Pha – 1970
• Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) – 1970
• Quê hương tan rã (dịch C. Achebe) – 1970
• Một lương tâm nổi loạn – 1970
• 15 gương phụ nữ – 1970
• Hoa đào năm trước – 1970
• Thư gởi người đàn bà không quen (dịch André Maurois) – 1970
• Einstein – 1971
• Con đường hoà bình – 1971
• Lợi mỗi ngày một giờ – 1971
• Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch Will Durant) – 1971
• Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại – 1971
• 33 câu chuyện với các bà mẹ – 1971
• Chấp nhận cuộc đời (dịch L. Rinser) – 1971
• Ý chí sắt đá – 1971
• Chinh phục hạnh phúc (dịch Bertrand Russell) – 1971
• Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) – 1971
• Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) – 1971
• Nhà giáo họ Khổng – Cảo Thơm 1972
• Liệt tử và Dương tử – Lá Bối 1973
• Cầu sông Drina (dịch I. Andritch) – 1972
• Bài học lịch sử (dịch Will Durant) – 1972
• Ý cao tình đẹp – 1972
• Thế giới bí mật của trẻ em – 1972
• Bertrand Russell – 1972
• Cháu bà nội tội bà ngoại – 1974
• Những vấn đề của thời đại – 1974
• Nguồn gốc văn minh (dịch Will Durant) – 1974
• Văn minh Ả Rập (dịch Will Durant) – 1975
• 10 câu chuyện văn chương – 1975
• Mạnh Tử – 1975
• Sử Trung Quốc (3 tập) 1982
• Con đường thiên lý – 1990
• Tôi tập viết tiếng Việt – 1990
• Hồi ký Nguyễn Hiến Lê – (Xuất bản 1992)
• Khổng Tử – viết xong 1978 (Xuất bản 1992)
• Đời nghệ sĩ – (Xuất bản 1993)
• Lão Tử – viết xong 1977 (Xuất bản 1994)
• Trang Tử – viết xong 1975 (Xuất bản 1994)
• Hàn Phi Tử – viết chung với Giản Chi, 1975 (Xuất bản 1994)
• Tuân Tử – viết xong 1975 (Xuất bản 1994)
• Mặc học – viết xong 1976 (Xuất bản 1995)
• Luận ngữ – viết xong 1978 (Xuất bản 1995)
• Đời viết văn của tôi – (Xuất bản 1996)
• Lịch sử văn minh Trung Quốc (dịch Will Durant) – (Xuất bản 1997)
• Gogol – (Xuất bản 2000)
• Tourgueniev – (Xuất bản 2000)
• Tchekhov – (Xuất bản 2000)
• Để tôi đọc lại – (Xuất bản 2001)
• Những quần đảo thần tiên (dịch Somerset Maugham) – 2002
• Kinh Dịch, đạo của người quân tử – viết xong 1979 (Xuất bản 1992, …,2002…)

Ngoài ra, Nguyễn Hiến Lê còn có 242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách.

Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Ông lâm bệnh và mất ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73 tuổi.

Danh thơm còn mãi

Phần mộ của nhà văn hóa lỗi lạc Nguyễn Hiến Lê tại chùa Phước Ân, gần ngã tư Cai Bường, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Võ, tỉnh Đồng Tháp.

Tác giả Trung Thu đã kể lại trên Nguyệt san Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2009 về việc Tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê . “Mở đầu cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê viết: “Mà có bao giờ người ta nghĩ đến việc thu thập tài liệu trong dân gian không? Chẳng hạn khi một danh nhân trong nước qua đời, phái một người tìm thân nhân hoặc bạn bè của người đã mất, để gom góp hoặc ghi chép những bút tích về vị ấy, rồi đem về giữ trong các thư khố làm tài liệu cho đời sau. Công việc có khó khăn tốn kém gì đâu, mà lại có lợi cho văn hóa biết bao”. Thật không ngờ, điều cụ luôn canh cánh trong lòng, đến khi mất lại vận vào chính đời cụ.

…Vĩnh Thạnh nghèo nàn và ướt át. Tôi phải hỏi tới người thứ tư mới biết chính xác đường vào chùa Phước Ân. Từ ngã tư Cai Bường rẽ tay trái vào hơn 1 km đường đất nữa mới tới. Con đường len lỏi qua những vườn cây ăn trái xanh mướt và một cây cầu gỗ bắc ngang con kênh. Nhà dân nằm im lìm dưới tán lá như trái chín giấu mình sau vòm lá. Không khí thuần khiết hòa vào hương xoài dịu êm khiến tôi ngẩn ngơ. Gia quyến cụ Nguyễn Hiến Lê phải cực kỳ tinh tế và hiểu ý cụ mới đem cụ về an nghỉ chốn bình yên này.

Chùa Phước Ân hiện ra trước mắt tôi vừa trang nghiêm vừa thân thiện. Ngôi chùa đơn sơ ẩn hiện sau lớp lá bồ đề lóng lánh nước mưa. Không một bóng người. Không gian im ắng. Tôi dắt xe chầm chậm qua sân chùa. Một bà cụ mặc áo nâu sòng, mái tóc hoa râm xuất hiện. Biết tôi muốn tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê, bà chậm rãi trả lời. “Trong chùa này chỉ có thầy trụ trì với bà biết ông ấy thôi”.

Bà dẫn tôi vào chánh điện. Sau lớp kính mờ ảo của khung ảnh, nụ cười cụ Nguyễn Hiến Lê vẫn tươi rói và đôi mắt dường như vẫn dõi theo trần gian, đôi mắt như thăm thẳm một niềm an lạc. Di ảnh cụ được treo bên cạnh người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Liệp. Sau khi cụ mất, bà xuất gia đi tu và mong muốn được an nghỉ tại chùa Phước Ân cùng chồng.

Mộ cụ Nguyễn Hiến Lê nằm lọt thỏm trong khoảng 20 ngôi mộ khác. Ngôi mộ của một con người lỗi lạc nhỏ nhắn và giản dị đến nỗi bát nhang không một nén. Nhưng tôi biết, cụ rất ấm cúng khi nằm chung với toàn thể gia quyến trong một khu mộ.

Không hoành tráng lộng lẫy. Không bia đá trường cửu. Không khoa trương diễm lệ. Cụ nằm đó bên ngôi chùa trầm mặc nghe kinh kệ là một diễm phúc hiếm ai nghĩ tới. Có lẽ đây là lối đi mãn nguyện nhất đối với một tâm hồn vốn giản dị và thanh sạch.

Trong gian phòng ấm cúng bên ly trà nóng, bà cụ hỏi tôi có thân thích gì với cụ Lê không mà lại đi thăm mộ lúc trời mưa gió. Tôi thưa thật, tôi chỉ là người đọc sách của cụ. Tôi tìm mộ cụ chỉ để thắp một nén nhang trước hương hồn cụ để tỏ lòng cảm phục. Bà …hỏi tôi rằng cụ viết sách hay lắm sao mà mất lâu thế vẫn có người nhắc đến. …

Tôi cắm vào lư hương trên mộ cụ một nén nhang thành kính. Hương trầm tỏa bay làm cay cay khóe mắt”

Mới đây Trương Vĩnh Khánh , hội Văn hóa Nghệ thuật Đồng Tháp trong bài Đôi dòng về học giả Nguyễn Hiến Lê 1912-1984 thì lại có lời thưa là bạn Trần Trung Thu đã “hỏi thăm chưa đúng chỗ chứ người An Giang & Đồng Tháp chúng tôi không mấy ai lại vô tình không biết và chúng tôi vô cùng tôn kính nhà văn, học giả kiệt xuất ấy.”. Ông Trương Vĩnh Khánh đã bổ sung thêm một số tư liệu và ông Vũ Ngọc Tiến đã gửi cho Viet-studies:

Nguyễn Hiến Lê hiệu là Lộc Đình, sinh ngày 20 tháng 11 âm lịch năm Tân Hợi nhằm ngày 8 tháng 01 năm 1912 (Giấy khai sinh ghi ngày 8/4/1912). Nguyên quán làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội ). Ông là một học giả, nhà nghiên cứu văn hoá kiệt xuất, xuất thân trong một gia đình nho học, thân phụ là Nguyễn Văn Bí, hiệu Đặc Như.

Thuở nhỏ ông học ở trường tiểu học Yên Phụ – trường Bưởi (Trung học), Trường Cao Đẳng Công Chánh (Hà Nội ) – Năm 1934 tốt nghiệp được bổ làm việc tại các tỉnh miền tây Nam bộ.

Sau cách mạng tháng 8/1945, ông từ bỏ đời sống công chức về Long Xuyên dạy học trường Trung học Thoại Ngọc Hầu (collège de Long Xuyen).

Năm 1952, ông lên Sài Gòn mở nhà xuất bản biên dịch sách, sáng tác và viết báo.

Tính đến năm 1975, ông đã cho xuất bản hơn 100 tác phẩm về nhiều lĩnh vực như: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân du ký, dịch tiểu thuyết, sách học làm người…

Từ năm 1975 cho đến lúc qua đời, ông còn trước tác được hơn 20 tác phẩm. Trong số đó có những cuốn như: “Lịch sử thế giới, Đông kinh nghĩa thục, Văn minh Arập, Sử Trung Quốc, Lịch sử văn minh Trung Quốc, nguồn gốc văn minh, Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam, gương danh nhân và kinh dịch”(in theo bản thảo chép tay của Nguyễn Hiến Lê mới xuất bản năm 1992 của nhà xuất bản Văn học Hà Nội, được đánh giá là một công trình khảo cứu có giá trị khoa học đặc sắc về văn hóa phương Đông.

Vào năm 1967, chính quyền Sài Gòn đã trao tặng ông cùng Giản Chi: Giải nhất ngành biên khảo và giải tuyên dương sự nghiệp Văn học – Nghệ thuật (1973). Đi kèm với danh hiệu cao quý đương thời là tấm ngân phiếu một triệu đồng (tương đương 25 cây vàng lúc đó). Học giả Nguyễn Hiến Lê đã công khai từ chối nhận giải với lý do “nên dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh” và bản thân tác giả cũng không dự giải.

Năm 1980, ông về ẩn cư ở Long Xuyên. Ông lâm bênh và mất lúc 8 giờ 50 phút ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại bệnh viện An Bình – chợ Lớn TP Hồ Chí Minh- hưởng thọ 72 tuổi. Hoả thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.

Di cốt Nguyễn Hiến Lê được đem về chôn cất trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (vợ thứ 2 quê ở Long Xuyên, còn bà cả tên Tuệ người miền Bắc).

Năm 1999 Bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân, ở rạch Cai Bường, thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Di cốt của ông cũng được đem đặt trên phần mộ của bà.

Hiện người con trai của ông là Nguyễn Nhật Đức và bà Tuệ (vợ cả) đang định cư tại Pháp.

Ông Trương Vĩnh Khánh cũng đã ứng tác bài thơ trước mộ cụ Nguyễn Hiến Lê khi cùng nhóm văn bút Lấp Vò là Từ Quang, Trịnh Kim Thuấn đưa nhà văn Vũ Ngọc Tiến đến chùa Phước Ân viếng mộ học giả, nhà văn khả kính Nguyễn Hiến Lê nhân tiết Thanh Minh 24/3 âm lịch – Quý Tỵ:

Về miền Tây viếng thăm thầy
Trăm năm một cõi – đám mây vô thường
Cả đời nặng nợ văn chương
Chồng Nam, vợ Bắc đoạn trường lắm thay!
Quê hương thương nhớ lắt lay
Trăm nghìn trang sách – trắng tay phong trần
Nghiêng nghiêng bóng nắng chiều xuân
Mờ mờ sương khói, trầm luân kiếp người.
Ngẩn ngơ vườn tháp lệ rơi
Tấm bia, ngọn cỏ nhàu phơi úa màu
Văn chương để lại ngàn sau
Xác thân lưu lạc thấm đau nỗi đời.
Tài hoa nặng nợ – số trời
Xót Thầy nằm đó trông vời cố hương!…

Tổng hợp SGT Group