Danh nhân Nguyễn Trung Ngạn (1289 -1370) được đương thời và hậu thế đánh giá là một tài năng xuất chúng trên nhiều lĩnh vực.
Nguyễn Trung Ngạn thuở nhỏ tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi nay là Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Tài năng của ông phát lộ từ rất trẻ, ngay lúc nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, đương thời tôn xưng là “thần đồng”. Mới 15 tuổi, ông đã thi đỗ Hoàng giáp (1304), về sau làm quan đến chức Nhập nội Đại Hành khiển (tức Tể tướng), tước Thân Quốc công, đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều đình.
Trao đổi với chúng tôi, giáo sư Phan Huy Lê cho biết: Tại hội thảo khoa học về danh nhân văn hóa Nguyễn Trung Ngạn được tổ chức tại Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) năm 2009, nhân kỷ niệm 720 năm ngày sinh của ông, các nhà khoa học đã làm rõ nhiều vấn đề về sự nghiệp, và đóng góp của ông đối với đất nước.
Ông là một nhà chính trị giỏi, nhà ngoại giao xuất sắc, nhà làm luật công tâm, nhà hoạch định chính sách sáng suốt đồng thời cũng là một nhà thơ có tài. Chính tài năng vượt trội trên nhiều lĩnh vực, cùng lòng yêu nước, trung quân, yêu dân và cuộc sống liêm khiết đã tạo nên tài năng xuất chúng Nguyễn Trung Ngạn với sự tín nhiệm của triều đình và sức làm việc sáng tạo đa dạng, kỳ diệu.
Trong Đại việt sử ký toàn thư, so với những nhận vật cùng thế hệ, ghi chép về Nguyễn Trung Ngạn nhiều hơn cả, với nhiều lời ngợi ca hơn. Rõ ràng là trong thế hệ trí thức làm quan trọng yếu cùng thời, Nguyễn Trung Ngạn nổi bật hơn ngay lúc đương thời. Càng làm quan chức vụ càng lớn, ông là người dám đổi mới, biết đổi mới và đổi mới có hiệu quả, 2 lần đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều, ngang Tể tướng. Vừa làm nội trị, vừa ngoại giao, vừa làm thơ, vừa kinh qua thực tiễn ở các địa phương, vừa đảm nhiệm chức trách ở kinh thành. Trước Nguyễn Trung Ngạn, cả triều Lý, triều Trần chưa có tể tướng nào thế cả.
Theo sử sách, trong cuộc đời làm quan qua năm đời vua triều Trần, Nguyễn Trung Ngạn là một trong 10 người được xếp vào hàng "Người phò tá có công lao tài đức" thời Trần.
Nguyễn Trung Ngạn thuở nhỏ tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi nay là Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Tài năng của ông phát lộ từ rất trẻ, ngay lúc nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, đương thời tôn xưng là “thần đồng”. Mới 15 tuổi, ông đã thi đỗ Hoàng giáp (1304), về sau làm quan đến chức Nhập nội Đại Hành khiển (tức Tể tướng), tước Thân Quốc công, đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều đình.
Trao đổi với chúng tôi, giáo sư Phan Huy Lê cho biết: Tại hội thảo khoa học về danh nhân văn hóa Nguyễn Trung Ngạn được tổ chức tại Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) năm 2009, nhân kỷ niệm 720 năm ngày sinh của ông, các nhà khoa học đã làm rõ nhiều vấn đề về sự nghiệp, và đóng góp của ông đối với đất nước.
Ông là một nhà chính trị giỏi, nhà ngoại giao xuất sắc, nhà làm luật công tâm, nhà hoạch định chính sách sáng suốt đồng thời cũng là một nhà thơ có tài. Chính tài năng vượt trội trên nhiều lĩnh vực, cùng lòng yêu nước, trung quân, yêu dân và cuộc sống liêm khiết đã tạo nên tài năng xuất chúng Nguyễn Trung Ngạn với sự tín nhiệm của triều đình và sức làm việc sáng tạo đa dạng, kỳ diệu.
Trong Đại việt sử ký toàn thư, so với những nhận vật cùng thế hệ, ghi chép về Nguyễn Trung Ngạn nhiều hơn cả, với nhiều lời ngợi ca hơn. Rõ ràng là trong thế hệ trí thức làm quan trọng yếu cùng thời, Nguyễn Trung Ngạn nổi bật hơn ngay lúc đương thời. Càng làm quan chức vụ càng lớn, ông là người dám đổi mới, biết đổi mới và đổi mới có hiệu quả, 2 lần đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều, ngang Tể tướng. Vừa làm nội trị, vừa ngoại giao, vừa làm thơ, vừa kinh qua thực tiễn ở các địa phương, vừa đảm nhiệm chức trách ở kinh thành. Trước Nguyễn Trung Ngạn, cả triều Lý, triều Trần chưa có tể tướng nào thế cả.
Theo sử sách, trong cuộc đời làm quan qua năm đời vua triều Trần, Nguyễn Trung Ngạn là một trong 10 người được xếp vào hàng "Người phò tá có công lao tài đức" thời Trần.
Trong cuộc đời làm quan, với tính cương trực, hai lần Nguyễn Trung Ngạn bị giáng chức, trong đó có lần do ông can vua không được. Nhưng cả hai lần nhờ tài năng trong điều hành chính sự, giải quyết được nhiều vụ việc phức tạp, ông lại được vua thăng chức.
Mùa xuân năm 1342, Nguyễn Trung Ngạn được tin cẩn trao trọng trách giữ chức Đại doãn Kinh sư Thăng Long (quan đứng đầu kinh thành, tương đương với Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ngày nay) và là vị Kinh sư đại doãn nổi tiếng nhất trong lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Ơ thủ đô hiện có tới 7 ngôi đình, đền thờ Nguyễn Trung Ngạn.
Theo nghiên cứu của các nhà sử học, Nguyễn Trung Ngạn là danh nhân có nhiều công trình tưởng niệm nhất ở Hà Nội. Các nhà sử học cho rằng, ngoài vị trí là người đứng đầu kinh thành Thăng Long trong nhiều năm, điều quan trọng nhất khiến ông được người dân tôn kính và thờ phụng như vậy chắc chắn phải là một vị quan liêm khiết, thương dân, làm được nhiều việc tốt cho dân, nên tiếng thơm mới lâu bền như thế.
Cần nói thêm là theo sử sách, dưới triều Trần vai trò của chức quan đứng đầu kinh thành rất được coi trọng. Những vị quan được cử giữ chức cai quản kinh sư đều là những bậc tài cao đức trọng, danh tiếng và nổi tiếng liêm khiết nhằm bảo đảm tư cách và năng lực của người đứng đầu chính quyền kinh thành Thăng Long.
Trần Nguyên Đán, đại thần, tôn thất nhà Trần, ông ngoại Đại thi hào Nguyễn Trãi, đánh giá rất cao nhân cách cũng như tài kinh bang tế thế của Nguyễn Trung Ngạn:
Mùa xuân năm 1342, Nguyễn Trung Ngạn được tin cẩn trao trọng trách giữ chức Đại doãn Kinh sư Thăng Long (quan đứng đầu kinh thành, tương đương với Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ngày nay) và là vị Kinh sư đại doãn nổi tiếng nhất trong lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Ơ thủ đô hiện có tới 7 ngôi đình, đền thờ Nguyễn Trung Ngạn.
Theo nghiên cứu của các nhà sử học, Nguyễn Trung Ngạn là danh nhân có nhiều công trình tưởng niệm nhất ở Hà Nội. Các nhà sử học cho rằng, ngoài vị trí là người đứng đầu kinh thành Thăng Long trong nhiều năm, điều quan trọng nhất khiến ông được người dân tôn kính và thờ phụng như vậy chắc chắn phải là một vị quan liêm khiết, thương dân, làm được nhiều việc tốt cho dân, nên tiếng thơm mới lâu bền như thế.
Cần nói thêm là theo sử sách, dưới triều Trần vai trò của chức quan đứng đầu kinh thành rất được coi trọng. Những vị quan được cử giữ chức cai quản kinh sư đều là những bậc tài cao đức trọng, danh tiếng và nổi tiếng liêm khiết nhằm bảo đảm tư cách và năng lực của người đứng đầu chính quyền kinh thành Thăng Long.
Trần Nguyên Đán, đại thần, tôn thất nhà Trần, ông ngoại Đại thi hào Nguyễn Trãi, đánh giá rất cao nhân cách cũng như tài kinh bang tế thế của Nguyễn Trung Ngạn:
“Sáng rực như sao Bắc Đẩu, cao vòi vọi như núi Thái Sơn
Dân đều ngưỡng mộ Hữu nhị đài”
Dân đều ngưỡng mộ Hữu nhị đài”
Một người làm quan mà được bạn đồng liêu, một nhân cách lớn thời Trần, thuộc dòng tôn thất ca ngợi như vậy thì đủ thấy Nguyễn Trung Ngạn có uy tín chính trị lớn đến chừng nào thời bấy giờ.
Ông còn là một nhà ngoại giao thông minh, mưu trí, khi mới 26 đã được tin cẩn cử đi sứ nhà Nguyên, một công việc quan trọng liên quan thể diện quốc gia và đầy nguy hiểm, gian nan. Dưới thời phong kiến, những người được cử đi sứ đều phải là những bậc đại khoa, thông minh mẫn tiệp và nhất là phải có tài ứng đối…
Sử sách và trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện ông tiếp sứ nhà Nguyên. Năm 1324, vua Nguyên mới lên ngôi, sai sứ thần Mã Hợp Mưu mang chiếu sang nước ta báo tin. Chúng ngạo nghễ cưỡi ngựa định vào thẳng hoàng cung. Quân thị vệ ngăn lại thì bị mắng om xòm. Các viên quan biết tiếng ra đón tiếp, trình bày hơn 3 giờ liền mà chúng không thèm nghe. Một bên là không thể bất nhã với sứ nước khác, nhất lại là nước lớn láng giềng. Còn một bên là quốc thể không thể để bị hạ thấp. Vua Trần vô cùng tức giận, sai Nguyễn Trung Ngạn ra gặp Mã Hợp Mưu.
Ông đã dùng kiến thức uyên bác và lý lẽ sắc bén của mình khiến sứ giả nhà Nguyên đuối lý, chịu xuống ngựa, bưng chiếu đi bộ vào yết kiến vua Trần. Khi biết Nguyễn Trung Ngạn là quan Ngự sử, 15 tuổi đã đỗ bảng vàng thì sứ thần nhà Nguyên thay đổi thái độ. Từ đấy cho đến khi về nước, mọi cử chỉ hành động đều khiêm nhường, không ngông nghênh như trước, khiến vua Trần rất hài lòng.
Cuộc đời Nguyễn Trung Ngạn qua sử sách khắc hoạ sâu sắc tố chất của vị quan tài năng, ngay thẳng, yêu nước, thương dân.
Khi làm Tào vận sứ lộ Khoái Châu, ông có sáng kiến lập ra các kho Tào thương để chứa thóc tô kịp thời cấp cho dân lúc đói kém. Sáng kiến này được vua Trần đánh giá cao và xuống chiếu cho các lộ bắt chước thi hành.
Khi trấn nhậm Thanh Hóa, ông cho rà lại sổ sách và đứng ra xét xử các vụ án một cách công minh làm gương cho các quan lại giữ trọng trách ở địa phương để không làm oan sai cho dân lành.
Khi làm việc ở Thẩm hình viện, ông lập Bình doãn đường để xét xử ngục tụng, không ai bị oan hoặc bị xử quá đáng, người đương thời lúc đó ví ông như Bao Công.
Vụ án về nho sinh họ Đỗ bị xã trưởng và chánh tổng bắt giải lên huyện cùng một túi vàng có 10 lượng với tội danh giết người cướp của là một thí dụ. Khi thẩm vấn phạm nhân, ông nhận thấy Đỗ Sinh là người thật thà còn xã trưởng và chánh tổng có thái độ đáng ngờ. Ông cải trang thành lái buôn đến tận nơi đào vàng và tìm về quê của thủ phạm để điều tra, vẫn không tìm ra manh mối.
Không để người ngay chịu tội, ông tiếp tục cho mở rộng điều tra, phát hiện người bạn của Đỗ Sinh đi làm ăn xa trở về có liên quan đến vụ án. Anh ta có giữ hộ Đỗ Sinh giấy biên nhận nộp vàng cho xã trưởng và chánh tổng sau khi nhặt được túi vàng là 20 lượng. Hai kẻ kia đã thông đồng bớt lại nửa số vàng rồi vu cho Đỗ Sinh tội giết người cướp của. Nguyễn Trung Ngạn khám nhà chánh tổng thấy 10 lượng vàng chôn dưới gốc cây thì lập tức lột mũ áo và tống giam 2 kẻ bất lương, còn Đỗ Sinh được thưởng 1 lượng vàng để ăn học…
Nguyễn Trung Ngạn còn để lại một sự nghiệp trước tác đáng nể trọng cho hậu thế. Ông là đồng tác giả với Trương Hán Siêu soạn hai bộ sách về pháp luật là Hoàng triều đại điển 10 quyển và Hình luật thư 1 quyển. Hai tác phẩm này được xem là cơ sở pháp chế quan trọng của triều đình nhà Trần.
Là một nhà thơ có tài trên thi đàn dân tộc, thơ của Nguyễn Trung Ngạn được nhiều danh nho đánh giá rất cao và sưu tập lại, nổi tiếng nhất là tập thơ: Giới Hiên thi tập, được sử gia Phạn Huy Chú ở thế kỷ XIX ca ngợi “Lời thơ hùng hồn mạnh mẽ, sở đắc nhiều phong cách thơ của Đỗ Thiếu Lăng – tức Đỗ Phủ đời Đường”.
Cố giáo sư, NGND Nguyễn Tài Cẩn nhận xét: “Nguyễn Trung Ngạn cũng là người đầu tiên sáng tạo ra lối lục ngôn thể, mở đường cho thơ lục ngôn thể của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đời sau..”.
Hiện nay, di bút duy nhất của Nguyễn Trung Ngạn còn được lưu lại là tấm bia khắc trên vách đá ở Nghệ An với nhan đề “Ma Nhai kỉ công bia văn”. Ngoài giá trị văn học được các nhà sử học ca ngợi bởi ngôn ngữ, bút pháp chặt chẽ, xúc tích, đây cũng chính là tấm văn bia Ma nhai (bia khắc trực tiếp lên vách núi) cổ nhất tại Việt Nam hiện nay.
Ông còn là một nhà ngoại giao thông minh, mưu trí, khi mới 26 đã được tin cẩn cử đi sứ nhà Nguyên, một công việc quan trọng liên quan thể diện quốc gia và đầy nguy hiểm, gian nan. Dưới thời phong kiến, những người được cử đi sứ đều phải là những bậc đại khoa, thông minh mẫn tiệp và nhất là phải có tài ứng đối…
Sử sách và trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện ông tiếp sứ nhà Nguyên. Năm 1324, vua Nguyên mới lên ngôi, sai sứ thần Mã Hợp Mưu mang chiếu sang nước ta báo tin. Chúng ngạo nghễ cưỡi ngựa định vào thẳng hoàng cung. Quân thị vệ ngăn lại thì bị mắng om xòm. Các viên quan biết tiếng ra đón tiếp, trình bày hơn 3 giờ liền mà chúng không thèm nghe. Một bên là không thể bất nhã với sứ nước khác, nhất lại là nước lớn láng giềng. Còn một bên là quốc thể không thể để bị hạ thấp. Vua Trần vô cùng tức giận, sai Nguyễn Trung Ngạn ra gặp Mã Hợp Mưu.
Ông đã dùng kiến thức uyên bác và lý lẽ sắc bén của mình khiến sứ giả nhà Nguyên đuối lý, chịu xuống ngựa, bưng chiếu đi bộ vào yết kiến vua Trần. Khi biết Nguyễn Trung Ngạn là quan Ngự sử, 15 tuổi đã đỗ bảng vàng thì sứ thần nhà Nguyên thay đổi thái độ. Từ đấy cho đến khi về nước, mọi cử chỉ hành động đều khiêm nhường, không ngông nghênh như trước, khiến vua Trần rất hài lòng.
Cuộc đời Nguyễn Trung Ngạn qua sử sách khắc hoạ sâu sắc tố chất của vị quan tài năng, ngay thẳng, yêu nước, thương dân.
Khi làm Tào vận sứ lộ Khoái Châu, ông có sáng kiến lập ra các kho Tào thương để chứa thóc tô kịp thời cấp cho dân lúc đói kém. Sáng kiến này được vua Trần đánh giá cao và xuống chiếu cho các lộ bắt chước thi hành.
Khi trấn nhậm Thanh Hóa, ông cho rà lại sổ sách và đứng ra xét xử các vụ án một cách công minh làm gương cho các quan lại giữ trọng trách ở địa phương để không làm oan sai cho dân lành.
Khi làm việc ở Thẩm hình viện, ông lập Bình doãn đường để xét xử ngục tụng, không ai bị oan hoặc bị xử quá đáng, người đương thời lúc đó ví ông như Bao Công.
Vụ án về nho sinh họ Đỗ bị xã trưởng và chánh tổng bắt giải lên huyện cùng một túi vàng có 10 lượng với tội danh giết người cướp của là một thí dụ. Khi thẩm vấn phạm nhân, ông nhận thấy Đỗ Sinh là người thật thà còn xã trưởng và chánh tổng có thái độ đáng ngờ. Ông cải trang thành lái buôn đến tận nơi đào vàng và tìm về quê của thủ phạm để điều tra, vẫn không tìm ra manh mối.
Không để người ngay chịu tội, ông tiếp tục cho mở rộng điều tra, phát hiện người bạn của Đỗ Sinh đi làm ăn xa trở về có liên quan đến vụ án. Anh ta có giữ hộ Đỗ Sinh giấy biên nhận nộp vàng cho xã trưởng và chánh tổng sau khi nhặt được túi vàng là 20 lượng. Hai kẻ kia đã thông đồng bớt lại nửa số vàng rồi vu cho Đỗ Sinh tội giết người cướp của. Nguyễn Trung Ngạn khám nhà chánh tổng thấy 10 lượng vàng chôn dưới gốc cây thì lập tức lột mũ áo và tống giam 2 kẻ bất lương, còn Đỗ Sinh được thưởng 1 lượng vàng để ăn học…
Nguyễn Trung Ngạn còn để lại một sự nghiệp trước tác đáng nể trọng cho hậu thế. Ông là đồng tác giả với Trương Hán Siêu soạn hai bộ sách về pháp luật là Hoàng triều đại điển 10 quyển và Hình luật thư 1 quyển. Hai tác phẩm này được xem là cơ sở pháp chế quan trọng của triều đình nhà Trần.
Là một nhà thơ có tài trên thi đàn dân tộc, thơ của Nguyễn Trung Ngạn được nhiều danh nho đánh giá rất cao và sưu tập lại, nổi tiếng nhất là tập thơ: Giới Hiên thi tập, được sử gia Phạn Huy Chú ở thế kỷ XIX ca ngợi “Lời thơ hùng hồn mạnh mẽ, sở đắc nhiều phong cách thơ của Đỗ Thiếu Lăng – tức Đỗ Phủ đời Đường”.
Cố giáo sư, NGND Nguyễn Tài Cẩn nhận xét: “Nguyễn Trung Ngạn cũng là người đầu tiên sáng tạo ra lối lục ngôn thể, mở đường cho thơ lục ngôn thể của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đời sau..”.
Hiện nay, di bút duy nhất của Nguyễn Trung Ngạn còn được lưu lại là tấm bia khắc trên vách đá ở Nghệ An với nhan đề “Ma Nhai kỉ công bia văn”. Ngoài giá trị văn học được các nhà sử học ca ngợi bởi ngôn ngữ, bút pháp chặt chẽ, xúc tích, đây cũng chính là tấm văn bia Ma nhai (bia khắc trực tiếp lên vách núi) cổ nhất tại Việt Nam hiện nay.
Ngày nay, trên quê hương Thổ Hoàng, nơi danh nhân văn hoá của dân tộc Nguyễn Trung Ngạn cất tiếng khóc chào đời, còn lưu giữ di tích tưởng nhớ ông. Bác Nguyễn Trung Toàn, hậu duệ đời thứ 21 và bác Nguyễn Trung Tưởng, trưởng họ Nguyễn Trung làng Thổ Hoàng, hậu duệ đời thứ 22 của Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn đưa chúng tôi thăm Lăng mộ ông.
Lăng mộ của danh nhân văn hoá tuổi Sửu tương đối khang trang đặt trên cồn Con Nhạn, có hình đất như con nhạn, rộng hơn 70 m2, chung quanh được xây viền gạch nằm ở phía Tây Nam làng Thổ Hoàng, cách đường trục chính của huyện khoảng 1 km đường chim bay. Trên mộ là nhà bia tưởng niệm hình vuông, 8 mái cong kiểu cổ. Trong lăng có bia đá cao 60x40cm khắc hai hàng chữ Hán: Danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn. Dưới góc bia bên phải ghi 2 dòng chữ quốc ngữ: Hậu duệ thứ 21 lập bia 10.2014. Trước bia đá là bát hương hình vuông. Trước mái cong bên dưới đề hàng chữ quốc ngữ: Mộ tổ họ Nguyễn Trung. Ngoài cùng cổng nhà bia là hai cột đề câu đối: Ái quốc danh nhân công linh tại/ Trung quân chính khí sử ký tồn.
Tuy vậy, đền thờ danh nhân Nguyễn Trung Ngạn nay không còn nữa do bị chiến tranh tàn phá. Bởi vậy, dư luận nhân dân luôn ước mong đền thờ ông sớm được xây dựng trên quê hương danh nhân, xứng tầm huân công đại nghiệp của ông.
Để tôn vinh danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn xứng tầm đóng góp của ông đối với đất nước, huyện Ân Thi đang tích cực xúc tiến với Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) về dự án xây dựng đền thờ Nguyễn Trung Ngạn, với kinh phí ước tính khoảng 40 tỷ đồng.
Tiếng thơm của danh nhân Nguyễn Trung Ngạn còn lưu mãi tới ngày nay. Ngoài quê hương Hưng Yên, tên ông đã được đặt cho nhiều trường học, đường phố, công trình văn hóa ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác…
Minh Huệ
Lăng mộ của danh nhân văn hoá tuổi Sửu tương đối khang trang đặt trên cồn Con Nhạn, có hình đất như con nhạn, rộng hơn 70 m2, chung quanh được xây viền gạch nằm ở phía Tây Nam làng Thổ Hoàng, cách đường trục chính của huyện khoảng 1 km đường chim bay. Trên mộ là nhà bia tưởng niệm hình vuông, 8 mái cong kiểu cổ. Trong lăng có bia đá cao 60x40cm khắc hai hàng chữ Hán: Danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn. Dưới góc bia bên phải ghi 2 dòng chữ quốc ngữ: Hậu duệ thứ 21 lập bia 10.2014. Trước bia đá là bát hương hình vuông. Trước mái cong bên dưới đề hàng chữ quốc ngữ: Mộ tổ họ Nguyễn Trung. Ngoài cùng cổng nhà bia là hai cột đề câu đối: Ái quốc danh nhân công linh tại/ Trung quân chính khí sử ký tồn.
Tuy vậy, đền thờ danh nhân Nguyễn Trung Ngạn nay không còn nữa do bị chiến tranh tàn phá. Bởi vậy, dư luận nhân dân luôn ước mong đền thờ ông sớm được xây dựng trên quê hương danh nhân, xứng tầm huân công đại nghiệp của ông.
Để tôn vinh danh nhân văn hoá Nguyễn Trung Ngạn xứng tầm đóng góp của ông đối với đất nước, huyện Ân Thi đang tích cực xúc tiến với Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) về dự án xây dựng đền thờ Nguyễn Trung Ngạn, với kinh phí ước tính khoảng 40 tỷ đồng.
Tiếng thơm của danh nhân Nguyễn Trung Ngạn còn lưu mãi tới ngày nay. Ngoài quê hương Hưng Yên, tên ông đã được đặt cho nhiều trường học, đường phố, công trình văn hóa ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác…
Minh Huệ