248 lượt xem

Phạm Nhữ Tăng và công cuộc Nam chinh mở cõi

Năm 1471, Phạm Nhữ Tăng dẫn đầu đạo quân cùng với vua Lê Thánh Tông đích thân chinh phạt Chiêm Thành. Sau khi đại thắng, bờ cõi nước Nam mở rộng đến Khánh Hòa (ngày nay) và ông được đức vua cho trấn giữ tại thành Bình Định. Sau khi mất, thi hài ông được đưa về an táng tại làng Hương Quế (nay thuộc xã Hương An, H. Quế Sơn, Quảng Nam). Khi làm lễ an táng, đích thân vua Lê Thánh Tông ngự giá đến chỉ đạo việc hậu sự và lưu bút tích bằng hai câu đối: "Nghĩa sĩ uẩn cơ mưu, hiệp lực nhất tâm bình Chiêm quốc/ Miếu đài khai tráng lệ, hương hồn thiên cổ hiển Nam bang"…

Theo gia phả của dòng họ Phạm và nhiều tư liệu lịch sử cho thấy, Phạm Nhữ Tăng (1422 - 1478) là con trai của Phạm Nhữ Dự - người có công giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh; là cháu nội Phạm Nhữ Dực, người từng giữ chức Chánh đô án vũ sứ phụ trách di dân ở khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi dưới triều Hồ Hán Thương (1401). Từ đầu thế kỷ XV, người họ Phạm từ phía Bắc vào định cư ở đất Thăng Hoa (Quảng Nam ngày nay), Phạm Nhữ Tăng được sinh ra và lớn lên tại vùng đất này.

Những năm đầu triều đại nhà Lê, vua nước Chămpa là Trà Toàn có mưu đồ muốn "sinh sự" với nước Đại Việt. Một mặt, Trà Toàn cử người sang cầu viện nhà Minh, một mặt cho quân liên tục quấy nhiễu bờ cõi, biên cương của Đại Việt. "Đánh cướp Hóa Châu, giết hại binh thú gần hai tháng mịt mù khói lửa, họa tày trời ta mới dẹp yên..."- trích bài Chiếu bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông. Trước tình hình đó, đích thân nhà vua chỉ huy binh mã, cất quân sang Chămpa hỏi tội Trà Toàn. Lúc này, Phạm Nhữ Tăng được vua Lê Thánh Tông phong làm Trung quân Đô thống, lãnh ấn tiên phong, chỉ huy 20 vạn quân. Mùa xuân năm Hồng Đức thứ hai (1471), vua Lê Thánh Tông hạ chiếu bình Chiêm. Ông dẫn đạo tiên phong, phát pháo xuất quân, mở cửa thành, thượng đại kỳ thêu bốn chữ "Bình Chiêm hưng quốc". Vua Lê Thánh Tông ngự giá thân chinh theo sau...Lật từng trang gia phả của dòng tộc, ông Phạm Nhữ Trợ - Chủ tịch Hội đồng gia tộc Phạm Nhữ, cháu đời thứ 17 của ông Phạm Nhữ Tăng cho biết: Vào năm Đại Hòa thứ ba (1445) triều vua Lê Nhân Tông, Phạm Nhữ Tăng thi đỗ đệ nhị Điện hoằng Từ khoa, được phong làm Thái bảo, kiêm Tri quân Dân chính Sự vụ. Năm 1460, ông là Nghĩa sĩ tham gia xướng nghĩa cùng các trung thần Nguyễn Xí, Lê Quyết Trung, Lê Nhân Thuận, Lê Niệm, Đinh Liệt,... dẹp hàng trăm loạn đảng, phế Lê Nghi Dân, rước Lê Thánh Tông lên ngôi vua...

Trước khi tấn công đánh vào cửa Thi Lị Bị Nại (tức cửa Thị Nại - Quy Nhơn ngày nay), vua Lê Thánh Tông sai các võ tướng cho người ngầm vẽ địa đồ kỹ lưỡng. Nhờ vậy mà tướng sĩ của Đại Việt do Phạm Nhữ Tăng chỉ huy đã nhanh chóng buộc quân Chămpa phải bỏ Thi Lị Bị Nại chạy vào cố thủ ở kinh thành Vijaya (Còn gọi là thành Đồ Bàn, tức thành Bình Định hiện nay). Thừa thắng xông lên, võ tướng Phạm Nhữ Tăng cho quân bao vây, phá thành Đồ Bàn, tiêu diệt quân Chiêm, bắt sống Trà Toàn. Tướng Chămpa là Bô Trì Trì phải chạy tháo thân về đất Phan Lung xưng chúa rồi cho sứ sang dâng sớ lên triều đình ta xin cống. Ngày mồng 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (Tân Tỵ - 1471), nước Đại Việt được mở đến núi Thạch Bi Sơn (tức khu vực giáp ranh 2 tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa ngày nay).

Sau khi đại sự hoàn thành, vua cho thành lập Thừa tuyên Quảng Nam kéo dài từ đèo Hải Vân vào đến Thạch Bi Sơn. Đô Thống phủ của Thừa tuyên Quảng Nam lúc ấy đặt tại thành Đồ Bàn. Phạm Nhữ Tăng được vua Lê Thánh Tông cử lưu trấn tại thành Bồ Bàn, giữ vững an ninh, tổ chức di dân mở đất, lập làng xã và được trao chức Đô ty Quảng Nam kiêm trấn phủ Hoài Nhân (Đô Thống phủ). Với chức Đô ty Quảng Nam, ông tập trung cho việc phát triển phủ Thăng Hoa, cho lập địa bạ (sổ ruộng đất). Ngoài ra, ông cùng các bậc tiền bối các tộc Nguyễn, Trần, Lê có công khai khẩn tạo lập Ngũ Hương gồm 5 làng: Hương Quế, Hương Lộc, Hương An, Hương Yên và Hương Lư (nay thuộc xã Quế Phú và Hương An, H. Quế Sơn)...

Ở tại thành Bồ Bàn được hơn 6 năm thì ông bị bệnh. Theo gia phả dòng họ Phạm, khi hay tin ông bị bệnh, vua đã cho Thái y đến nơi chăm lo thuốc thang, nhưng không qua khỏi. Ông mất ngày 21-2 đời Hồng Đức thứ tám (1478). Sau khi ông mất, vua Lê Thánh Tông lấy làm thương tiếc, bèn hạ chiếu rằng: "Khanh là người có công mở mang bờ cõi, phục vụ ba triều, đã vì triều đình coi trọng, vì đất nước an nguy, song khanh số sống đã tận, sức cùng không chữa được, thọ bệnh mà chết. Ta đây lòng không yên. Khanh khi sống vì nghĩa mà vô tư, vì nước mà ra sức. Ta đối với khanh rất nặng tình, sáu năm yêu nước mến vua, nếm mật nằm gai, con cháu ngày sau thừa hưởng".

Miếu đài khai tráng lệ, hương hồn thiên cổ hiển Nam bang. Nghĩa là: Nghĩa sĩ lắm mưu cơ, góp sức một lòng bình Chiêm quốc. Miếu đài thêm rạng rỡ, hương hồn ngàn thuở rạng trời Nam. Hiện câu đối hai bên mộ này vẫn còn. Về sau, vua Lê Thần Tông, niên hiệu Dương Hòa sắc phong ông là Chánh ngự Nam phương Phạm phủ quân phò Hựu thượng Đẳng thần.Di hài ông được an táng tại Trường Xà thành, cách thành Bồ Bàn khoảng 6km về phía tây. 6 tháng sau, vua cho dời hài cốt ông về làng Hương Quế, cho xây lăng mộ và cấp tự điền cho xã dân lo việc phụng tự. Vua ban sắc gia phong ông là Hoằng Túc Trợ Võ, Đặc tấn Phụ quốc, Quảng Dương hầu, Phạm quý công Đại phu. Vua ngự bút câu đối trước mộ: Nghĩa sĩ uẩn mưu cơ, hiệp lực nhất tâm bình Chiêm quốc.

Với địa thế "Lục long tranh chầu", ngôi mộ của danh tướng Phạm Nhữ Tăng phía trước nhìn ra Bàu Sanh, nơi có dòng nước quanh năm chảy, phía sau tựa vào ngọn Núi Quế. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và tác động của chiến tranh, ngôi mộ của ông dần hư hỏng, xuống cấp nên đã qua 3 lần trùng tu sửa chữa vào các năm 1957, 1969, 1996.

Những dấu tích để lại

Nằm giữa cánh đồng trống, cách ngôi mộ của ông Phạm Nhữ Tăng vài trăm mét có nhà thờ tộc Phạm xây dựng từ thế kỷ XVI nép mình dưới những tán thị cổ thụ. Nhà thờ được chính ông Phạm Nhữ Tăng xây dựng dưới thời Hồng Đức được xem là một công trình kiến trúc cổ nhất trong vùng nói riêng và của Quảng Nam nói chung...

Độc đáo nhà thờ họ Phạm

Cùng với tác động của thời gian, nhà thờ họ Phạm đã qua vài lần trùng tu sửa chữa nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính. Nhà thờ được xây dựng theo bố cục một gian, hai chái; mái lợp ngói âm dương, bờ nóc trang trí "lưỡng long tranh châu", các bờ mái trang trí chim phượng và hoa lá cuốn cách điệu... "Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, nơi đây còn lưu giữ gia phả tộc họ và 7 tờ sắc phong từ các đời vua Lê, chúa Nguyễn cách đây gần 6 thế kỷ. Đặc biệt, trong khuôn viên nhà thờ có ba miếu cổ thờ các vị: Thánh mẫu Thiên y Ana, bò thần Nandin và một bia ký viết chữ Chăm cao khoảng 1,7m, rộng 0,9m"- ông Phạm Nhữ Thiên, hậu duệ đời thứ 18 của ông Phạm Nhữ Tăng cho biết.

Trong những miếu thờ trên, đáng chú ý có miếu thờ bò thần Nandin. Theo tìm hiểu, bò thần Nandin còn có tên khác là Kapin hoặc Kapil. Tượng bò ở thế nằm được tạc từ chất liệu đá đặc biệt, có người gọi là đá thiên thạch. Ngoài hai mắt tròn, bò Nandin còn có con mắt thứ ba giữa trán. Theo quan niệm của người xưa, con mắt này gọi là thiên nhãn phát ra những phép thuật nhiệm mầu và là mối liên kết giữa con người và thần linh. Theo quan niệm của người Chăm, bò Nandin là bò đực và là vật cưỡi của thần Siva.

Nhà thờ họ Phạm có thể nói là một trong những di tích hiếm hoi và quý giá bởi những hiện vật mang tính lịch sử được các thế hệ dân làng và các đời vua chúa trân trọng, luôn tu bổ, thờ phụng. Đặc biệt, ba miếu thờ trong khuôn viên nhà thờ họ Phạm là bằng chứng cho thấy mối giao lưu văn hóa, tín ngưỡng và quá trình cộng cư của hai dân tộc Việt - Chăm trong lịch sử một cách sinh động, trong đó vai trò của các danh thần như các ngài tiền hiền họ Phạm là hết sức quan trọng. Dù Phạm Nhữ Tăng đã bình Chiêm, mở rộng bờ cõi nhưng những tín ngưỡng, tinh hoa văn hóa của người Chăm vẫn được ông và con cháu đời sau lưu giữ, thờ tự. Với các đặc điểm kiến trúc và công trình tín ngưỡng đặc thù, nhà thờ tộc Phạm và ba miếu thờ đã được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào năm 2007.

Giếng Chăm gần nghìn năm tuổi

Bên cạnh nhà thờ họ Phạm khoảng 20m, đầu tháng 5 vừa qua, người dân và chính quyền địa phương phát hiện một giếng Chăm cổ được xây dựng từ thế kỷ thứ XII. Giếng được xây dựng theo kết cấu hình vuông, mỗi cạnh khoảng gần 1m và được xây bằng gạch Chăm cổ, giống như chất liệu được sử dụng để xây dựng các đền tháp của người Chăm cổ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Ông Tôn Thất Hướng, Trưởng phòng Di sản (Sở VH-TT&DL tỉnh Quảng Nam) cho biết, qua khảo sát và nghiên cứu, các nhà khảo cổ khẳng định nơi phát hiện giếng Chăm cổ đã từng tồn tại một cộng đồng người Chăm sinh sống cách đây hàng chục thế kỷ.

Vì giếng Chăm cổ mới được phát hiện nằm cạnh bờ ruộng nên hiện các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Nam thực hiện việc khoanh vùng, đóng cọc, làm hàng rào bảo vệ giếng nhằm ngăn chặn tình trạng xâm thực trong quá trình sản xuất. "Tỉnh Quảng Nam sẽ mời các chuyên gia thực hiện các công tác khảo sát, nghiên cứu, thẩm định để tìm ra giá trị lịch sử của giếng Chăm cổ, qua đó có thêm chứng cứ khoa học để khẳng định rằng khu vực này từng tồn tại một cộng đồng người Chăm sinh sống", ông Tôn Thất Hướng cho biết thêm.

Đình thờ Tam tộc

Cách đó vài trăm mét, đình thờ Tam tộc tại làng Hương Quế là nơi thờ cúng các bậc tổ tiên, các anh hùng liệt sĩ ba dòng họ Phạm, Nguyễn và Trần. Như đã nói ở kỳ trước, trong công cuộc bình Chiêm, ngoài Phạm Nhữ Tăng ra còn có các tướng Trần Văn Chơn (nguyên là Đô đốc chỉ huy hải quân), Nguyễn Ngọc Thanh (con trai của Nguyễn Văn Lang, là hậu duệ 4 đời của danh thần lỗi lạc Nguyễn Trãi) vì đã có công lớn nên được vua sắc phong, ban thưởng và cho trấn an tại các vùng đất mới để bảo vệ biên cương. Theo đó, Phạm Nhữ Tăng cùng với hai danh tướng họ Nguyễn, Trần đã chọn vùng đất Hương Quế này làm nơi an cư lạc nghiệp cho con cháu. Ông Phạm Nhữ Trợ cho biết, đình thờ Tam tộc có trước nhà thờ của ba tộc hiện nay.

Do chiến tranh tàn phá và theo thời gian, đình thờ cũng xuống cấp, hư hỏng nên đã được di chuyển qua 5 địa điểm trong làng. Đình thờ hiện nằm ở vị trí trung tâm của làng Hương Quế (thôn Hương Quế Trung), được xây dựng từ năm 1960. Đình thờ Tam tộc là một trong những di tích hiếm hoi còn sót lại ở Quảng Nam, bởi nó không chỉ gìn giữ được các bản sắc, giá trị văn hóa làng xã của Việt Nam mà còn in đậm giá trị lịch sử, phản ánh đời sống và quá trình di dân của cư dân Việt trên tiến trình mở mang bờ cõi. Với các đặc điểm văn hóa, lịch sử đặc sắc, đình thờ Tam vị tiền hiền làng Hương Quế đã được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh...

Bão Bình-Mai Hân
Cand.com.vn