Thân Văn Nhiếp – vị quan cương trực, có tài thao lược
Nguồn: Sưu tầm
Cha nào con nấy
Thân Văn Nhiếp sinh ngày 28/9 năm Giáp Tý (1804). Cụ thân sinh là Thân Văn Quyền, là người học giỏi, nhưng vì thời cuộc có nhiều biến cố nên cụ không tham gia thi cử, ở nhà dạy học trò.
Mãi đến khi 53 tuổi, dưới thời Minh Mạng thứ 4, cụ mới được tiến cử làm quan. Tuy nhiên bước đường quan lộ của cụ trắc trở, bị cách chức nhiều lần vì tính thẳng thắn, bênh vực lẽ phải, những người dân vô tội.
Theo gia phả họ Thân, năm Minh Mạng thứ 15 (1835), cụ đứng ra can vua xin giảm nhẹ tội cho tiến sĩ Nguyễn Trữ, án sát Hưng Yên, lấy lý do quan tâm đến nhân tài, vua Minh Mạng giận lắm, truyền đưa ông ra pháp trường xử chém. Rất may, nhà vua kịp thời nghĩ lại, cho thị vệ mang thẻ bài tức tốc đuổi theo đến cửa An Hòa hoãn lệnh thi hành án.
Thân Văn Nhiếp được cha dạy học từ tấm bé, thông minh, học giỏi nhưng ông không may mắn trên khoa trường, bốn lần đi thi thì cả bốn lần chỉ đậu tú tài. Mãi tới khoa thi Tân Sửu (1841), ông mới đậu cử nhân và đến năm 40 tuổi mới ra làm quan.
Ông đã từng làm quan ở Vĩnh Long, Khánh Hòa, Quảng Nam, Gia Định, có khi được điều về Kinh làm ở các bộ, từ Hành tẩu sở, đến Tham biện bộ Lễ, bộ Lại, bộ Binh… Dù bất kỳ ở đâu, bất kỳ công tác gì Thân Văn Nhiếp cũng làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cương trực, thấy việc không đúng thì mạnh dạn góp ý, dù đó là mệnh lệnh của cấp trên, thậm chí là ý chỉ của nhà vua.
Dưới thời Tự Đức (1848-1883) tình hình đất nước đứng trước nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp. Nhiều tỉnh, thành đã bị quân Pháp đánh chiếm, ông được triều đình cử đến ứng phó, lần đầu là ở Quảng Nam, các lần sau là ở Biên Hòa, Gia Định.
Khi cử Thân Văn Nhiếp đi làm Bố chánh Quảng Nam, vua Tự Đức căn dặn: “Tỉnh Quảng Nam nay rất nhiều việc. Hiện giờ ngoài tàu Tây dương đang đậu, trong thời giá gạo càng cao, ngươi là người thạo việc ta biết đã lâu; chớ phụ lòng ta tin cậy”.
Luôn đứng về phía dân
Trong những thời điểm khó khăn nhất, để ổn định và vượt qua tình thế, Thân Văn Nhiếp luôn nghĩ đến bồi dưỡng sức dân, đứng về phía dân, một quan điểm hiếm có trong giới quan trường thời bấy giờ.
Tháng 11 năm 1856, từ chức vụ biện lý bộ Binh, triều đình Huế cử Thân Văn Nhiếp vào giữ chức Bố chính tỉnh Quảng Nam. Nhiệm vụ chính trước tiên là phải giải quyết nạn đói đang hoành hành, ổn định tình hình dân chúng để có thể đối phó với cuộc chiến chống thực dân Pháp sắp đến. Ông phải mất hai năm vật lộn hết sức vất vả, tình hình kinh tế của tỉnh Quảng Nam mới được phục hồi.
Năm 1858, thực dân Pháp sau khi tiến quân đánh Trung Quốc buộc triều đình Mãn Thanh phải ký hòa ước nhượng cho Pháp nhiều quyền lợi về kinh tế, đã kéo quân đội viễn chinh chuyển sang chiến trường Việt Nam. Hải quân Pháp đem tàu chiến tấn công Đà Nẵng làm bàn đạp đánh ra Kinh đô Huế.
Ngày 1/9/1858 Đô đốc Genouilly gửi tối hậu thư hẹn trong 2 giờ phải trả lời. Tổng đốc Nam Ngãi trong tay có 3000 quân, án binh bất động chờ lệnh triều đình. Chưa hết giờ hẹn, giặc bắn hàng trăm phát đại bác lên đất liền, rồi đổ bộ lên chiếm bán đảo Sơn Trà… Địch cố tiến quân vào đất liền. Những trận chiến đấu đã diễn ra ở xã Cẩm Lệ, ven biển huyện Hòa Vang. Tổng thống quân vụ Lê Đình Lý bị thương và chết (theo sách Lịch sử Việt Nam).
Đánh giặc bằng vườn không nhà trống là chiến lược của Thân Văn Nhiếp trong trận chiến với quân Pháp. Ông đã biết kết hợp chặt chẽ giữa cuộc chiến đấu chống giặc với sự an dân.
Nguồn: Sưu tầm
Đánh giặc bằng vườn không nhà trống
Tháng 10/1858, triều đình cử Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống quân vụ. Thân Văn Nhiếp hết sức hợp tác với Nguyễn Tri Phương phục vụ chiến đấu.
Trong công việc, Thân Văn Nhiếp biết kết hợp chặt chẽ giữa cuộc chiến đấu chống giặc ở mặt trận Đà Nẵng với sự an dân, ổn định tình hình hậu phương các huyện trong tỉnh. Nhân dân Quảng Nam mặc dù vừa trải qua mấy năm đói kém, bây giờ đã có đủ ăn và dành đủ lương thực để cung cấp cho quân lính của triều đình vừa gửi đến.
Về chiến lược chiến thuật quân sự, Thân Văn Nhiếp đã vận dụng những bài học đánh giặc ngoại xâm của dân tộc. Ông đã vận động nhân dân làm vườn không nhà trống, sơ tán dân các làng ven biển Hòa Vang để cô lập triệt nguồn tiếp tế lương thực của địch.
Làm chướng ngại vật ngăn đường sông, dùng xích sắt thả ngầm dưới nước ở cửa Đại Chiêm (nay là Cửa Đại), triệt đường biển không cho quân Pháp tiến vào thành Quảng Nam. Khắp mọi nơi các đội dân quân được thành lập để đánh địch theo quy mô nhỏ, tiêu hao sinh lực địch.
Về mặt an ninh chính trị, Thân Văn Nhiếp đề phòng tính tả khuynh và ông đã giải quyết việc này một cách triệt để. Đô đốc Genouilly đã thất vọng nói rằng: “Người ta (tức là các giáo sĩ Pháp) báo cáo rằng dân chúng sẽ hưởng ứng chúng ta, nhưng sự thật trái hẳn lại. Chúng ta không có chút thiện cảm nào của người dân”.
Sau 5 tháng tấn công, quân Pháp đã không tiến thêm được một bước nào. Trong thư gửi về Pháp, Đô đốc De Genouilly đã thú nhận: Chúng ta đang nhanh chóng trượt dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng.
Gian nan kháng chiến
Không đánh được Đà Nẵng, quân Pháp chuyển hướng chiến tranh vào Nam bộ, nơi có nhiều sông ngòi để chúng có thể phát huy ưu thế hải quân. Ngay từ đầu, chúng dùng đại bác bắn phá các đồn lũy của ta và chỉ trong 7 ngày, thành Gia Định thất thủ.
Cũng như ở Đà Nẵng, nhân dân Gia Định tiêu thổ kháng chiến, bất hợp tác với giặc. Nghĩa quân được nhân dân ủng hộ. Tháng 8 năm 1860, Nguyễn Tri Phương được triều đình Huế cử làm Tổng thống quân vụ thay cho Tôn Thất Cáp, một người chủ hòa đã bỏ lỡ cơ hội hiếm có khi quân Pháp rút phần lớn lực lượng sang Trung Quốc, chỉ còn để lại khoảng một ngàn quân giữ thành Gia Định.
Đến Gia Định, Nguyễn Tri Phương áp dụng chiến dịch phòng thủ, tăng cường hệ thống đồn lũy kiên cố để chống giặc. Quân giặc sau khi thắng trận ở Trung Quốc, tập trung lực lượng về đánh chiếm Nam bộ, ngày 23/2/1861, Pháp bắn đại bác công phá Đại Đồn.
Sau 2 ngày chiến đấu quyết liệt, Nguyễn Tri Phương bị thương, Đại Đồn bị thất thủ, quân triều đình phải rút về Biên Hòa. Tháng 4/1861, triều đình cử Thân Văn nhiếp vào làm Hiệp tán quân thứ Biên Hòa.
Trong khi Khâm sai Đại thần Nguyễn Bá Nghi là một người chủ hòa, cuộc cầm quân của Thân Văn Nhiếp lúc này gặp rất nhiều khó khăn. Khi bàn bạc công việc, hai ông thường trái ý nhau.
Thân Văn Nhiếp chủ động dùng lực lượng của mình chặn đường tiến quân của địch. Ông đóng quân riêng ở núi Long Ẩn, chặn đường bộ không cho địch tiến quân, mặt khác tiến quân đánh chiếm lại Bình An, Thủ Dầu Một, không cho quân Pháp tiến đến Biên Hòa qua đất Đồng Bản.
Cho đến khi Pháp phá được chướng ngại vật ở khúc sông Phúc Giang, đưa tàu chiến vượt sông Đồng Nai thì Biên Hòa mới thất thủ.
7 lần dâng sớ góp ý với Vua Tự Đức. Đặc biệt năm 1868, Thân Văn Nhiếp dâng sớ về việc tiêu dùng xa xỉ và làm Khiêm Lăng.
Khiêm lăng
7 lần dâng sớ
Ngày 5/6/1862, triều đình Huế cắt nhượng ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa cho Pháp và thông tư cho quân thứ phải qua tỉnh Vĩnh Long mà chờ lệnh vua. Lúc này, Thân Văn Nhiếp không đi tiếp con đường của nghĩa quân như Tuần vũ Đỗ Quang, quản cơ Trương Định mà trở về Vĩnh Long nhận lệnh của triều đình.
Về đây, không phải ông sợ chết hay giảm ý chí chiến đấu, nhưng vì ông nặng ý thức trung quân do vậy đã hạn chế sự nghiệp của ông.
Dưới thời phong kiến, việc tham gia góp ý cho nhà vua không phải ai cũng dám làm, nhưng Thân Văn Nhiếp đã có tới bảy lần góp ý đối với nhà vua. Năm 1858, khi làm Tổng đốc Bình Phú, ông dâng sớ xin vua cấm nha phiến, không nên cho buôn bán mà đánh thuế, ông đã tâu đi tâu lại hai ba lần nhưng vua không nghe.
Năm 1866, ông dâng sớ xin nhà vua thân hành đi tế Nam giao, không nên cử khâm mạng đi thay: “Vua mà tế trời như con tế cha mẹ. Nếu tế cha mẹ mà con không đứng lễ, biểu người đầy tớ làm thay thì linh hồn cha mẹ chắc không bằng lòng rồi sự cúng tế hóa ra vô ích”. Vua Tự Đức phải có lời thanh minh vì lý do sức khỏe của mình.
Vì can mà chết cũng không dám tiếc
Năm 1868, Thân Văn Nhiếp dâng sớ về việc tiêu dùng xa xỉ và làm Khiêm Lăng: “Nhà thủy tạ hứng mát, tạm thời tiêu khiển mà kéo dài tới hàng tuần, vườn sau đua ngựa, dầu rằng tập khó nhọc, học nghề võ mà thực thì rong ruổi làm vui…
Gỗ cây hết, đặt giá mua của dân thì giá hạ, dân càng tỏ ra quẫn bách, sức binh mỏi thì không thể không trốn tránh… Lại gần đây mua hàng hóa của nước Thanh (Trung Quốc), hàng năm kể đến bạc vạn, hỏi han đồ châu báu khắp các tỉnh.
Nay xin triệt nhà thủy tạ, hủy vườn hậu phố, mà chẳng cần ngựa hay, bỏ việc đặt giá mua để thư sự đau khổ cho dân, xua con hát để tăng nghe được đoan chính. Thần cúi thấy thế sự ngày nay là thế nào? Bờ cõi cũ chìm mất, giặc Bắc tràn lan, nắng lụt gió bão, chỗ nào cũng có tai biến, sức kiệt của hết, dân không lấy gì mà sống được. Lòng người ở nơi gần kinh kỳ náo động, loạn lạc nổi lên, cái thế an nguy thật không chỉ trăm mối lo mà thôi.
Thế mà công việc hậu sự tha hồ xa xỉ, lên ngôi Vạn Niên Cơ so với lăng Thiên Thụ không những tốn gấp 10 lần, mà như ngói đen mua ở Hạ Châu, giầy trò chơi ma ở nước Thanh, đàn Tây dương, vải Tây dương. Lại khi tuần hành, cung mã chèo thuyền, đó là điều từ trước tới giờ chưa từng có…
Hoàng thượng, ngày thường vẫn mong bắt chước như Văn đế, thế mà hiện nay hành động lại trái ngược quá. Cho dân lao khổ để làm vui, vung tiền của để làm thích… Bệ hạ có nước mà không biết thương, thì tiểu nhân, nếu vì can ngăn mà chết thì cũng không dám tiếc”.
Thân Văn Nhiếp đã phụng sự đất nước 30 năm, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Thực dân Pháp bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn suy yếu, vua Tự Đức không có tầm nhìn chiến lược canh tân tự cường, quần thần thì nhiều kẻ cơ hội chủ hòa thất bại.
Trong hoàn cảnh ấy, mặc dù tinh thần trung quân đã có một phần hạn chế sự nghiệp của ông, nhưng đối với tài thao lược, tính cương trực và quan điểm chăm lo bồi bổ sức dân của Thân Văn Nhiếp luôn làm chúng ta khâm phục.
Tổng hợp: SGT Group