234 lượt xem

Trần Nhân Tông - Kỳ 2 ( Cuối)

Cung kính hành lễ Phật Hoàng Trần Nhân Tông ở Sóc Trăng


Sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm, xã tắc thanh bình, dân chúng an cư lạc nghiệp, Ngài đã có nhiều chính sách củng cố triều đình, phủ dụ và đoàn kết toàn dân xây dựng, phát triển quốc gia Đại Việt vững mạnh, trường tồn. Đặc biệt là chính sách hòa giải, Ngài đã xóa bỏ mọi lỗi lầm trước đó của các quần thần, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Về ngoại giao, Ngài đã thực thi phương sách vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với các nước lân bang.

Năm 1293, khi Ngài 41 tuổi đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông để lên làm Thái Thượng Hoàng. Sau khi nhường ngôi, năm 1294, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đích thân tiếp tục lãnh đạo quân sĩ Đại Việt đi chinh phạt Ai Lao, giữ yên bờ cõi và tiếp tục mối bang giao hòa hảo với đất nước “Triệu voi”. Sau khi quốc gia, xã tắc được bình yên, Ngài trở về hành cung Vũ Lâm (thuộc Ninh Bình ngày nay) xin xuất gia cầu đạo với Quốc sư Huệ Tuệ, khởi đầu cho sự nghiệp tu hành của người xuất gia tam giới.

Năm 1299, Ngài từ hành cung Vũ Lâm trở về kinh thành Thăng Long, rồi thẳng tiến lên núi Yên Tử (nay thuộc Uông Bí, Quảng Ninh), tinh cần tu hạnh đầu đà lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Ngài cho dựng chùa, giảng pháp, độ Tăng. Người học Phật quy tụ về Yên Tử rất đông. Đồng thời, Ngài đã thống nhất ba dòng thiền: Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, Vô Ngôn Thông, và Thảo Đường thành lập lên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử với tư tưởng nhập thế “Cư trần lạc Đạo”, “Hòa quang đồng trần” là dòng thiền mang bản sắc riêng của Đại Việt. Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử được gìn giữ và lưu truyền qua các thời đại, các thế hệ Phật giáo Việt Nam mà ngày nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam là chủ thể kế thừa tinh hoa nhập thế đồng hành cùng dân tộc.


Người sáng lập nền Phật giáo Trúc Lâm và dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử được các thế hệ nhân dân ta tôn xưng là Vua Phật Việt Nam. Nguồn: Sưu tập

Xuất gia tu hành chứng ngộ tinh túy của thiền tông và với tinh thần nhập thế sâu sắc, Hương Vân Đại Đầu Đà Trần Nhân Tông đã thường xuyên đi các nơi để giảng dạy Phật pháp. Ngài không chỉ ở hoằng pháp ở khắp vùng thành thị, thôn quê mà còn du lãm ra cả các vùng đất bên ngoài; không phải chỉ ở trong nước, mà còn đến cả các nước lân bang. Năm 1301, Ngài đến trại Bố Chính (nay là Lệ Thủy, Quảng Bình) lập am Tri Kiến (nay là chùa Hoằng Phúc, huyện Lệ Thủy) tu hành, nắm vững tình hình và thực hiện hành trình hóa độ cho các nước láng giềng, phía Nam tới Chiêm Thành. Quốc vương Champa rất kính cẩn thỉnh mời Ngài giảng giải giáo nghĩa thiền tông. Thông qua Phật pháp, Ngài đã tạo lập mối quan hệ hợp tác, hòa bình, hữu nghị với các nước lân bang. Kết quả là vùng đất châu Ô, châu Lý tức châu Thuận, châu Hóa mới được sáp nhập vào Đại Việt do vua Chế Mân dâng làm sính lễ cưới Huyền Trân công chúa. Thiền phái Trúc Lâm cũng được hoằng hóa với sự xuất hiện của nhiều ngôi chùa không chỉ là nơi sinh hoạt tâm linh cho các cư dân từ Bắc vào sinh sống trên vùng đất mới mà còn là công trình văn hóa khẳng định chủ quyền của dân tộc cùng với việc truyền bá văn hóa Đại Việt.

Năm 1304, Ngài chống gậy trúc dạo đi khắp các địa phương, xóm làng trong nước để khuyến khích muôn dân giữ gìn năm giới, tu hành thập thiện, dẹp bỏ những nơi thờ cúng không đúng chính pháp, loại bỏ những điều mê tín dị đoan, xây dựng chính tín. Mùa đông cùng năm đó, vua Trần Anh Tông dâng biểu thỉnh mời Điều Ngự vào đại nội trong cung để truyền giới Bồ tát cho các vương công, bá quan văn võ, quần thần.

Khởi hành cung rước an vị Tôn tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông


Trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, Sơ Tổ Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã chủ trì cho khắc in Đại Tạng kinh và biên soạn kinh sách, ngữ lục. Nguồn: Sưu tập

Năm 1307, niên hiệu Hưng Long thứ 15, tại am núi Ngọa Vân, trong số các đệ tử là thiền sư Pháp Loa, Bảo Sát, Bão Phác, Pháp Không, Pháp Cổ, Huệ Nghiêm, Pháp Tràng, Hương Tràng, Hương Sơn, Mật Tạng…, Đức Điều ngự Trần Nhân Tông đã trao truyền y bát và viết tâm kệ trao cho Tôn giả Pháp Loa làm nối dõi truyền thừa Trúc Lâm.

Năm 1308, ngày mùng 1 tháng giêng năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, tại Cam Lộ đường chùa Siêu Loại (nay là Gia Lâm, Hà Nội), Điều Ngự Trần Nhân Tông đã trao chức vụ trụ trì chùa Báo Ân cho Ngài Pháp Loa và truyền tâm ấn phong làm Đệ nhị Tổ Trúc Lâm trước sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông. Đức Điều Ngự trở thành Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm. Trong thời gian đó, Ngài thường lui tới các chùa Báo Ân Siêu Loại, Sùng Nghiêm Hải Duơng, Vĩnh Nghiêm Bắc Giang, chùa Từ Lâm, chùa Quỳnh Lâm Đông Triều để giảng kinh, thuyết pháp và chứng minh các lễ hội.

Ngày mùng Một, tháng 11 năm Mậu Thân – 1308, Sơ Tổ Điều Ngự Trần Nhân Tông nhập diệt tại đỉnh Ngoạ Vân, am Tử Tiêu, núi Yên Tử, thọ thế 51 năm. Theo các sách cổ sử, Ngài Bảo Sát phụng theo di chúc hỏa thiêu Điều Ngự để lại hàng ngàn hạt xá lỵ. Đệ nhị Tổ Pháp Loa và vua Trần Anh Tông cung rước ngọc cốt và xá lỵ về kinh thành cử hành quốc lễ tôn thánh hiệu là: “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật”. Xá lỵ sau đó được chia thành nhiều phần được tôn trí tại Ngọa Vân Am, và Huệ Quang Kim Tháp hay còn gọi là Tháp Tổ tại chùa Hoa Yên, non thiêng Yên Tử (Quảng Ninh). Ngoài ra, xá lỵ còn được tôn thờ ở các nơi khác là trung tâm lớn về chính trị, kinh tế, tôn giáo dưới thời nhà Trần như ở tháp Đại Thắng Tư Thiên tức tháp Báo Thiên ở kinh thành Thăng Long (Hà Nội), Lăng Quy Đức phủ Long Hưng (Thái Bình), Tháp Phổ Minh thuộc Phủ Thiên Trường (Nam Định).


Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là vị hoàng đế anh minh, lãnh tụ thiên tài, anh hùng dân tộc.

Trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, Sơ Tổ Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã chủ trì cho khắc in Đại Tạng kinh và biên soạn kinh sách, ngữ lục. Qua đó, Ngài đã để lại cho hậu thế kho tàng pháp bảo vô cùng quý báu như: Trần Nhân Tông thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Trung Hưng Thực Lục, Truyền Đăng Lục v.v….Cốt lõi nhất là bài kệ Pháp thân thường trụ trước khi nhập diệt Ngài nói cho đệ tử hầu cận là Thiền sư Bảo Sát: “ Nhất thiết pháp bất sinh; Nhất thiết pháp bất diệt; Nhược năng như thị giải; Chư Phật thường tại tiền; Hà khứ lai chi hữu”. Được dịch nghĩa là: “Tất cả pháp không sinh; Tất cả pháp không diệt; Ai hiểu được như vậy; Thì chư Phật hiện tiền; Nào có đến có đi”.

Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là vị hoàng đế anh minh, lãnh tụ thiên tài, anh hùng dân tộc. Ngài là nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng lớn, đồng thời là nhà tu hành giác ngộ đã để lại hệ thống tư tưởng đặc sắc về Phật giáo. Người sáng lập nền Phật giáo Trúc Lâm và dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử được các thế hệ nhân dân ta tôn xưng là Vua Phật Việt Nam.


Sơ Tổ Điều Ngự Trần Nhân Tông nhập diệt tại đỉnh Ngoạ Vân. Nguồn: Sưu tập

Đức vua Trần Nhân Tông - Cuộc đời và sự nghiệp.

 
Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn tại chùa Phổ Minh (ảnh tư liệu)

Hoàng đế Trần Nhân Tông ( Tại vị: 1278 - 1293) tên húy là Trần Khâm quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc phường Lộc Vượng thành phố Nam Định). Ông là con trưởng của Thánh Tông Trần Hoảng, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258. Vua ở ngôi 15 năm (1278-1293), nhường ngôi cho con là Anh Tông lên làm Thái Thượng hoàng 5 năm (1293-1298), xuất gia đi tu (1293-1308) và viên tịch ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), thọ năm mươi mốt tuổi.

Hoàng tử Trần Khâm sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Với tư chất thông minh, ông đã nhanh chóng lĩnh hội được tri thức về trị quốc của Nho giáo, tinh thần nhân văn của Phật giáo. Nhà vua đã kế thừa được kinh nghiệm về nội trị và ngoại giao của các tiên đế.

Nói đến vua Trần Nhân Tông, trước hết là nói đến người anh hùng cứu dân, cứu nước. Ông là một nhà chiến lược có tài chỉ huy quân sự đã đứng ra lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua mọi thử thách, đưa cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên tới thắng lợi huy hoàng. Thái tử Trần Khâm được vua cha truyền ngôi khi mới 21 tuổi, đúng vào thời kỳ quân Mông Cổ đánh bại Nam Tống lập ra triều Nguyên. Biết được dã tâm xâm lược của kẻ thù, nhà vua đã cùng quân dân Đại Việt gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến bảo vệ giang sơn. Vua biết chọn người tài, giao cho họ những chức quan trọng. Tháng 12 năm 1282, vua lấy Thái uý Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, Đinh Củng Viên làm Hàn lâm viện Học sĩ, Trần Khánh Dư làm Phó đô Tướng quân. Tháng 10 năm 1283, Nhân Tông tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước.

Vua cũng nhận rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân nên có sáng kiến tổ chức hai hội nghị lớn: Tháng 10 năm 1282, vua và Thượng hoàng mở hội nghị quân sự Bình Than họp với các vương hầu và bách quan bàn kế sách đánh giặc, cử các tướng lĩnh đem quân đi trấn giữ các nơi hiểm yếu. Tháng 12 năm 1284, vua triệu tập các vị bô lão đại diện cho nhân dân cả nước họp ở điện Diên Hồng để hỏi kế đánh giặc: "Các vị phụ lão đều nói đánh, muôn người cùng hô một tiếng.

Qua sự kiện trên có thể thấy vai trò đứng đầu nhà nước của vua Trần Nhân Tông trong hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông vào năm1285 và năm 1288 là vô cùng to lớn.

Vua Trần Nhân Tông đã nhiều lần trực tiếp cầm quân đánh giặc, xông pha tới nơi hiểm yếu để động viên khích lệ tướng sĩ. Trận Bạch Đằng giang năm 1288 được coi là trận đánh bại hoàn toàn giặc Nguyên. Trong trận này khi chiến thuyền quân Nguyên vướng cọc, sử chép: "Hai vua đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn, quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả".

Cũng trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, vua Nhân Tông đã thể hiện tài năng ngoại giao kiệt xuất thực thi một chính sách đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo có nguyên tắc trên cơ sở bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, đặc biệt đối với quốc gia ngoại bang hùng mạnh luôn có dã tâm xâm lược Đại Việt là triều Nguyên Mông xứ Trung Hoa lúc bấy giờ hay các nước thân cận láng giềng. Một mặt vua giữ lễ thường qua lại thăm viếng, cống nạp như trước. Trong khi kẻ thù thì khiêu khích, đe dọa, Nhân Tông không dứt khoát cự tuyệt mà, nhằm tranh thủ thời gian hoà hoãn để củng cố và khẩn trương xây dựng lực lượng. Vua tìm cách thoái thác những yêu sách xâm hại đến chủ quyền quốc gia và lợi ích của Đại Việt, như khi sứ nhà Nguyên sang dụ hàng, vua đã không trả lời mà còn bắt giam sứ giả, rồi tích cực chuẩn bị kháng chiến.

Với quân xâm lược khi chúng giày xéo non sông thì vua thẳng tay trừng trị, với kẻ thất trận thì rộng lượng khoan hồng. Tù binh quân Nguyên thất trận được cấp lương ăn và phương tiện về nước. Ngay sau chiến thắng quân Nguyên vua Trần Nhân Tông đã cho sai đốt hết ngay tại sân chầu những báo cáo của các ông quan trung thành về bọn phản bội đi theo giặc để yên lòng những kẻ phản trắc.

Khi đất nước sạch bóng quân thù, vua chú trọng đến khuyến khích sản xuất, tổ chức học hành thi cử, tuyển chọn nhân tài. Lúc yên giặc trở về kinh đô thì xuống chiếu ra lệnh đại xá cho thiên hạ. Nơi nào bị binh lửa cướp phá thì miễn tô dịch…    Khi có nạn đói (1290), vua cho lấy thóc công chẩn cấp cho dân nghèo và miễn thuế lệ. Năm Quý Tỵ (1293), vua nhường ngôi cho con là Thái tử Thuyên (tức vua Anh Tông) lên làm Thái Thượng hoàng. Năm 1299, dù xuất gia tu hành nhưng Nhân Tông Hoàng đế vẫn luôn quan tâm tới việc nước, việc dân. Sử chép: Vào một ngày mùa Hạ năm Kỷ Hợi, Thượng hoàng Nhân Tông trở về kinh sư. Các quan không ai biết, vua Anh Tông thì uống rượu say, Thượng hoàng giận lắm, liền xuống chiếu cho các quan phải về Thiên Trường để điểm danh. Khi vua Anh Tông dâng biểu tạ tội, Thượng hoàng cho gọi vua vào, nói: "Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn dám như thế, huống chi sau này?".

Năm Giáp Ngọ (1294), tháng 7 Thượng hoàng xuất gia tại am Vũ Lâm ( nay thuộc  xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Tháng 7, Người chỉ đạo dựng am Ngự Dược xuất gia chuyên tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) trên núi Yên Tử.

Năm Tân Sửu (1301), mùa xuân thành đạo, trở thành vị vua bụt của Đại Việt với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng (một trong mười pháp danh của Phật tổ). Ông sáng tác bài phú Đắc Lâm Tuyền thành đạo ca, sáng lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mang sắc thái riêng của Đại Việt. Tháng 3, Điều Ngự Giác Hoàng đi thăm các nơi tìm hiểu mặt bằng tín ngưỡng trong dân chúng để chuẩn bị công cuộc giáo hóa.

Năm Quý Mão, Hưng Long thứ 11 (1303) tháng Giêng mùa xuân, Thượng hoàng đến cung Trùng Quang, chùa Phổ Minh, đến thăm chùa Vọc thôn Thành Thị, chùa Đô Quan - xã Mộc Nam, chùa Ông - xã Tượng Lĩnh thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Chùa Huyền Đô - huyện Mỹ Lộc, chùa Dưỡng Chính - xã Yên Khánh, Ý Yên thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Ca ngợi cảnh đẹp cố quý hương Phật Hoàng có thơ đề:
 

“…Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều dường có lại dường không

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồn…”.

(Thiên Trường vãn vọng)

 

Năm Bính Ngọ (1306) mùa Hạ, tháng sáu Vua gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Năm Đinh Mùi (1307) đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hoá mà trước đó vua Chiêm Thành là Chế Mân đem đất hai châu đó làm vật dẫn cưới nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo, Vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ Ý đức của nhà vua để vỗ về yên dân. Nhà vua đặt mối bang giao với các nước láng giềng tạo sự hiểu biết, nhằm củng cố và mở rộng bờ cõi Đại Việt nay là vùng đất Quảng Nam, Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế.

Cuộc đời và sự nghiệp Trần Nhân Tông với những điểm nổi bật: Kiên quyết đập tan dã tâm xâm lược của quân Nguyên Mông - một đế chế mạnh nhất từ Âu sang Á; Trị vì đất nước bằng lòng khoan dung, đoàn kết toàn dân bằng hòa hợp và yêu thương. Chính điều đó đã làm cho thế giới kính phục và đề cao. Trường Đại học Harvard (Mỹ) có Viện nghiên cứu Trần Nhân Tông, viện lập ra giải thưởng Trần Nhân Tông với chủ đề: “Hòa Giải và Yêu thương”.

Không chỉ là một chính khách kiệt xuất, một hoàng đế anh minh, Trần Nhân Tông còn là một triết gia, một nhà văn hoá lớn. Trong sự nghiệp của mình, vua Nhân Tông đã để lại nhiều trước tác có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, triết học, lịch sử, Phật giáo.

Văn bia tại chùa Phổ Minh vào thời Hậu Lê còn ghi về việc tạc tượng Phật “tìm gốc to, thành công rực rỡ, tô vẽ tượng sư tử trang nghiêm và tượng tòa sen”. Trong chùa hiện còn lưu giữ bức tượng Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, tay phải khỏa trần là tay chủ lo việc đời, lo cho quốc gia Đại Việt khi đã đánh tan giặc; tay trái lo việc đạo. Ngài đã an nhiên nằm nghiêng bên phải theo thế sư tử, đưa tâm thức vào vô lượng quang chư Phật, tức trở về tính sáng tự nhiên của bản tâm mà an nhiên thị tịch vào ngày mùng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) tại am Ngoạ Vân núi Yên Tử. Sau khi người mất thi hài đã được hoả táng. Theo truyền thuyết xá lỵ của Phật Hoàng thu được 21 viên, 7 viên táng ở Yên Tử (Quảng Ninh), 7 viên táng ở chùa Phả Lại (Hải Dương) còn 7 viên đưa về quê hương Tức Mặc, vua Trần Anh Tông đưa xá lỵ của Phật Hoàng vào hòm đá quý rồi đặt vào trong tháp Phổ Minh - một công trình kiến trúc độc đáo thời Trần còn được bảo tồn cho đến ngày nay. Tháp Phổ Minh tượng trưng cho hình tượng hoa sen mọc giữa hồ sen trong tư thế vươn cao, lan tỏa tâm linh của thiền phái Trúc Lâm nhập thế độc lập và tự chủ.      

 Cuộc đời và sự nghiệp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông dù làm vua, làm Thái Thượng hoàng hay nhìn qua lăng kính của một vị chân tu, Người rất quan tâm đến chốn cố hương. Chùa làng đất phật còn truyền tụng câu ca dao:

“ Dù ai tranh bá đồ vương

Trẫm xin gửi lại nắm xương chùa này”

Tại tòa thượng điện chùa Phổ Minh an trí tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn đây là một di vật tiêu biểu thời Hậu Lê (TK XVII) còn lưu giữ được. Tượng được tạc theo thế tượng phật niết bàn to như người thật, tay trái chống đầu, tay phải đặt nhẹ lên trên đầu gối, mặt hơi nghểnh lên vẻ từ bi, thư thái. Áo cà sa hở một, vạt áo, hộ tâm đều được tạo nếp gấp mềm mại. Đây là một pho tượng nhập niết bàn cổ nhất được các nhà nghiên cứu đánh giá cao.

Trần Nhân Tông, người sáng lập ra Phật phái Trúc Lâm Yên Tử là một Phật phái mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Năm 35 tuổi, sau khi lãnh đạo quân dân Đại Việt chiến thắng cả ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, đất nước trở lại thái bình, Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông. Đến năm 41 tuổi Ngài vào núi Yên Tử xuất gia tu hành, lấy hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, và trở thành Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử.

Từ cuộc đời, văn thơ đến giáo lý Trúc Lâm cho thấy Trần Nhân Tông luôn nung nấu tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, lòng dũng cảm "vô uý" (không sợ) của Thiền tông Trúc Lâm.

Trải qua mười thế kỷ tồn tại của nhà nước phong kiến tự chủ Việt Nam (từ thế kỷ X - XX), Trần Nhân Tông nổi lên là một vị vua anh minh lỗi lạc, không chỉ có công trong công cuộc bảo vệ non sông, giống nòi, trùng hưng đất nước, mà còn sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Với những áng văn thơ đầy xúc cảm tạo nên dấu ấn đậm nét trong văn học Việt Nam thời Lý - Trần. Nhân dịp kỉ niệm 710 năm ngày Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn (ngày mùng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) tác giả thực hiện bài viết này như một nén nhang thơm dâng lên Người thể hiện lòng tri ân sâu sắc, truyền thống uống nước nhớ nguồn.

Tổng hợp: SGT Group