304 lượt xem

Trần Tịnh

Đền thờ Trần Tịnh ở xã Kim Song Trường đón bằng di tích cấp quốc gia

Di tích đền thờ Quận công Trần Tịnh (xã Kim Song Trường, Can Lộc - Hà Tĩnh) hiện còn lưu giữ tấm văn bia thời Lê cổ quý hiếm cùng 3 đạo sắc phong cổ thời Lê và thời Nguyễn ghi danh công trạng của ông đối với quê hương, đất nước.

Sáng nay (17/1), tại xã Kim Song Trường, UBND huyện Can Lộc tổ chức lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia mộ và đền thờ Trần Tịnh. Tham dự buổi lễ có Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Võ Hồng Hải, lãnh đạo Sở VH-TT&DL, huyện Can Lộc cùng đông đảo con cháu dòng họ, Nhân dân địa phương.

Đại biểu tham dự buổi lễ. Nguồn: Sưu tập
 

Theo các tư liệu lịch sử, khảo sát thực địa, gia phả dòng họ Trần tại thôn Mật Thiết, xã Kim Lộc (nay là xã Kim Song Trường) không thấy ghi chép về năm sinh và năm mất của ông, chỉ ghi ngày mất là 3/12 (Âm lịch). Ông sinh ra trong một gia đình danh giá và có nề nếp; từ thuở nhỏ đã nổi tiếng học giỏi, thông minh, tư chất hiền lành, hòa thuận với anh em, gia đình, xóm làng và bè bạn.

Sau khi ra làm quan, ông được triều đình nhà Lê (vua Lê Anh Tông năm 1563) cử giữ chức Chưởng bạ tước Văn Lý tử, tự do ra vào nơi cung vua, phục vụ nhà vua tận tâm, tận lực, luôn đứng về lẽ phải, về đạo lý để cùng chung gánh vác phò vua giúp ích cho dân, cho nước.

Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Võ Hồng Hải, lãnh đạo Sở VH-TT&DL Hà Tĩnh trao bằng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia cho địa phương và đại diện dòng họ Trần Tịnh. Nguồn: Sưu tập
 

Trong thời gian này, nhà Mạc đứng đầu là Mạc Đăng Dung đã lợi dụng cuộc xung đột giữa các phe phái phong kiến, tìm cách diệt trừ các phe phái đối lập, đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân nhằm phế truất nhà Lê, Chúa Trịnh để lên nắm chính quyền. Lúc này, với danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, Trần Tịnh đã phò vua giúp dân, giúp nước thoát khỏi cảnh binh lửa tương tàn.

Với công lao đó, đến đời vua Lê Thế Tông (1582) niên hiệu Quang Hưng năm thứ 5, ông được vinh thăng chức phụng sự, chế tại nội truyền mệnh. Đến năm 1592, Chúa Trịnh thắng nhà Mạc và 2 năm sau (1594), niên hiệu Quang Hưng thứ 17, ông lại được gia phong chức đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, tham tri, tước Văn lý bá.

Đông đảo người dân cùng con cháu dòng họ Trần Tịnh đón rước bằng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Nguồn: Sưu tập

 

Trong thời gian chúa Trịnh lên nắm quyền bính, Trần Tịnh có công lao to lớn xông pha nơi trận mạc phò vua. Sau này đến đời vua Lê Kính Tông (1601), niên hiệu Hoằng Định thứ 2, xét công lao của ông trong buổi đầu khó khăn phò vua cứu chúa, ông được vinh phong làm chức Hiệp mưu tá lý công thần.

3 năm sau, niên hiệu Hoằng Định năm thứ 5 (1604), ông được vua phong chức Tổng thái giám, chưởng cung nội thừa chế sự, tước Văn Lý Hầu.

Trần Tịnh làm quan trải qua 3 triều vua. Từ vua Lê Anh Tông (1556 - 1573), vua Lê Thế Tông (1573 - 1599), vua Lê Kính Tông (1599 - 1619), đã đóng góp cho đất nước trong bối cảnh xã hội phong kiến rối ren thời Lê - Trịnh thế kỷ 16, 17. Ông là một vị quan thanh liêm chính trực, đức độ, nhân nghĩa, giàu lòng nhân ái vị tha, thông minh và giàu dũng khí, được Nhân dân yêu mến, kính trọng, quân sĩ cảm phục, bạn bè nể trọng, vua tôi tin tưởng, yêu mến.

Sau khi mất, để tưởng nhớ đến công lao và sự nghiệp giúp dân, cứu nước của ông, triều đình phong kiến nhà Lê - Trịnh đã gia phong ông chức Liêm quận công, tước Văn Lý Hầu.

Với công lao to lớn đó, các triều đại phong kiến kế tiếp sau từ thời Lê đến thời Nguyễn đã phong ông vào hàng ngũ những công thần tiết nghĩa, ghi danh công trạng và địa vị của ông đối với quê hương, đất nước.

Tấm văn bia thời Lê cổ quý hiếm, có niên đại năm Hoằng Định thứ 17. Nguồn: Sưu tập

Di tích đền thờ Quận công Trần Tịnh tọa lạc trên một khuôn viên cao, rộng, thoáng với diện tích 2.880 m2, xung quanh được bao bọc bởi làng mạc dân cư đông đúc, trù phú. Di tích có hệ thống tam quan, tắc môn, tường bao, nhà hạ điện, thượng điện, nhà bia và phần mộ của ông.

Hiện nay, tại di tích còn lưu giữ được tấm văn bia thời Lê cổ quý hiếm, có niên đại năm Hoằng Định thứ 17, triều vua Lê Kính Tông (1616). Đây là tấm bia cổ nhất còn lại ở Hà Tĩnh. Ngoài văn bia cổ, tại đây còn lưu giữ 3 đạo sắc phong cổ thời Lê và thời Nguyễn ghi danh công trạng của ông đối với quê hương, đất nước.

Tổng hợp: SGT Group