258 lượt xem

Diệp Trương Thuần

Diệp Trương Thuần

Thiền sư Diệp Trương Thuần, pháp danh Trừng Nguyên, pháp hiệu Đôn Hậu, nên thường gọi là Hoà thượng Thích Đôn Hậu, tục danh là Diệp Trương Thuần thuộc đời thứ 8 thiền phái Liễu Quán, sinh ngày 16-2-1905 (nhằm ngày 13-1-1905 âm lịch), quê ở làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Ông xuất thân trong một gia đình nho học, mồ côi mẹ từ năm lên 9, được phụ thân nuôi dạy rất chu đáo, đến năm 17 tuổi đã làu thông kinh sử Nho học. Năm 1924, ông xuất gia học Phật với Hoà thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên (Huế), năm 1932 học Đại học Phật giáo và thọ tam giới đàn cụ túc tại giới đàn chùa Từ Hiếu ở Huế.

Năm 1936, sau khi tốt nghiệp ông được mời làm giảng sư của Hội An Nam Phật học, cùng thời điểm này ông giảng dạy cho các Phật học đường Bảo Quốc, Tây Thiên (Huế), Phổ Đà (Đà Nẵng)...

Những năm 1940-1941, ông sang thuyết giảng tại các chùa ở Lào, tham dự các buổi lễ ở các địa phương có nhiều chùa tại vương quốc Phật giáo này.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông trụ trì chùa Linh Mụ (Thiên Mụ), giữ chức Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc Trung Bộ, kiêm Chủ tịch Hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên. Năm 1947 mặt trận Huế vỡ, ông bị Pháp bắt giam một thời gian; sau khi được trả tự do, ông làm Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật học Trung Việt, Giám luật Giáo hội Tăng già toàn quốc, chủ nhiệm báo Liên Hoa ở Huế.

Năm 1963, ông là một trong các hoà thượng Phật giáo cùng lãnh đạo đồng bào theo đạo Phật tranh đấu chống chính sách kì thị tôn giáo, độc tài của Ngô Đình Diệm.

Ngày 20-8-1963, ông bị bắt tại chùa Linh Mụ cùng với các hoà thượng, tăng ni khác. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1964) ông được cử làm Chánh đại diện Phật giáo thống nhất miền Vạn Hạnh từ Quảng Trị đến Quảng Nam.

Trong những năm chiến tranh ác liệt, nhất là vào năm 1968, ông được mời tham gia liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam được bí mật đưa lên chiến khu, rồi ra Hà Nội, giữ các chức vụ: Ủy viên Hội đồng cố vấn CPCMLTMNVN, cố vấn chính phủ cách LTMNVN, Đại biểu Quốc hội khóa VI... Trong thời gian ở Hà Nội ông đi thăm một số nước Liên Xô, Mông Cổ, Trung Quốc...

Sau năm 1975, ông trở về Huế trụ trì chùa Linh Mụ. Năm 1979, ông được cung thỉnh xử lí Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đầu năm 1980, ông là cố vấn Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam. Sau đại hội ông được suy tôn là Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng chứng minh Phật giáo Việt Nam. Trong thời gian này tuy tuổi già sức yếu ông vẫn làm Đàn đầu Hoà thượng các đại giới đàn tại các Thiền viện lớn ở Huế.

Ngày 3-4-1992 (nhằm ngày 21-3-1992 âm lịch) ông viên tịch tại chùa Linh Mụ hưởng thọ 87 tuổi đời, 67 tuổi Phật để lại sự thương tiếc trong lòng hàng vạn Phật tử và đồng bào trong toàn quốc.

Ông là tác giả các sách về phương pháp tu học và giáo lí đạo Phật:

Tác phẩm
  • Cách thức sám hối các tội đã phạm.
  • Phương pháp tu quán.
  • Tứ nhiếp pháp.
  • Cảm ứng tự nhiên.
  • Sinh mệnh vô tận hay là thuyết luân hồi.
Và rất nhiều chuyên luận đăng trên Viên Âm và Liên Hoa xuất bản ở Huế

Nguồn: http://mobile.coviet.vn