261 lượt xem

Hoàng Sầm

Đất Hiệp Hòa – Bắc Giang và Thám hoa Hoàng Sầm

Huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) có nhiều dòng họ khoa bảng, tiêu biểu trong các tiến sĩ đỗ đạt của đất Hiệp Hòa phải kể đến Hoàng Sầm. Vì yêu tiểu thư con quan nên quyết chí học hành và chỉ sau 3 năm đèn sách ông đã đỗ Thám hoa.

Mảnh đất nhiều Tiến sĩ

Hiệp Hòa – một huyện trung du thuộc tỉnh Bắc Giang, nằm ở phía tây nam của tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 30 km, cách thủ đô Hà Nội 50 km theo đường bộ; phía đông bắc giáp huyện Tân Yên, phía đông giáp huyện Việt Yên, phía nam giáp vùng đồng bằng châu thổ Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh, phía tây nam giáp huyện Sóc Sơn của Hà Nội, phía tây bắc giáp thị xã Phổ Yên và huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

Mảnh đất Hiệp Hòa có lịch sử lâu đời, từ thời kỳ vua Hùng, thuộc bộ lạc Tây Âu, nằm trong bộ Vũ Ninh; thời thuộc Hán, nằm trong huyện Long Biên quận Giao Chỉ; thời Lý, có tên gọi là Phật Thệ nằm trong phủ Bình Lỗ lộ Bắc Giang; thời Trần có tên là Thiện Thệ; thời Lê mới có tên gọi chính thức là Hiệp Hòa thuộc phủ Bắc Hà; thời Nguyễn đến năm 1831 Hòa nằm trong phủ Thiên Phúc.

Trong các triều đại phong kiến, qua 11 khoa thi, huyện Hiệp Hòa có 13 người đỗ tiến sĩ. Ông Đoàn Xuân Lôi, người xã Ba Lỗ, tổng Mai Đình (nay là làng Trâu Lỗ, hay làng Sổ) là người đầu tiên của Hiệp Hòa đỗ tiến sĩ, đạt Trạng nguyên năm Xương Phù thứ 8 (1384); sau đó là các ông Ngọ Doãn Thọ người xã Ngọ Xá; Khổng Tư Trực, người Đoan Bái; Nguyễn Hoàng (trong Văn Miếu ở Hà Nội ghi là Nguyễn Mao) người xã Đức Thắng; Nguyễn Doãn Địch, người Hoàng Vân.

Hoàng Sầm, người Thù Sơn, sau chuyển sang Quế Trạo, làm đến Thượng thư, tước Hoàng Phúc bá, là con rể Nguyễn Doãn Địch; Ngô Trang, người Ninh Định; Nguyễn Thúc Lương, Gia Định; Nguyễn Kính, người Quế Trạo; Nguyễn Như Tiếp, người Phúc Mỹ; Nguyễn Hữu Đức, người Vân Cẩm; Ngô Dụng, người làng Vân Trì; Nguyễn Đình Tuân, người làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình.
 
 
 

Hình minh họa
(Nguồn: Sưu tập)

 
Bắc Giang nói chung và huyện Hiệp Hòa nói riêng có nhiều dòng họ khoa bảng, tiêu biểu trong các tiến sĩ đỗ đạt của đất Hiệp Hòa phải kể đến Hoàng Sầm, ông sinh năm Nhâm Thân, niên hiệu Hồng Thuận thứ 8 (1512), người xã Thù Sơn, tổng Quế Trạo, (nay thuộc xóm Giếng, xã Hòa Sơn); năm 27 tuổi thi đỗ Hội nguyên, vào thi Đình đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (Thám hoa), khoa thi Mậu Tuất, niên hiệu Đại chính thứ 9 đời Mạc Đăng Doanh.

Một người đặc biệt

Ông là bạn đồng khoa với Trạng nguyên Giáp Hải; làm quan cho vương triều nhà Mạc tới chức Lễ bộ Tả thị lang, tước “Hoàng Phúc hầu”, được xem là một con người đặc biệt trong lịch sử thi cử phong kiến Việt Nam, được chọn để chép trong sách “Tang thương ngẫu lục” của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án.

Điểm đặc biệt của ông là năm 24 tuổi, ông vẫn là một anh bần nông mù chữ, nhưng vì yêu cô tiểu thư con quan nên quyết chí học hành và chỉ sau 3 năm đèn sách ông đã đỗ Thám hoa.

Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án ghi lại chuyện này như sau: Hoàng Sầm ở Thù Sơn đời đời làm nghề cày ruộng. Cha mất sớm, để lại cho mấy sào ruộng, mẹ con nương nhờ vào nhau sinh sống.

Mãi đến năm 24 tuổi, ông vẫn chưa hề biết một chữ nào. Bấy giờ ở huyện, có quan Thượng thư Nguyễn Doãn Địch về làng trí sĩ. Quan huyện sở tại bắt dân phu phải đi đón rước. Hoàng Sầm cũng trong số ấy sung vào chân khiêng kiệu tiểu thư con gái quan thượng; ông liếc mắt nhìn trộm thấy tiểu thư có nhan sắc thật tuyệt vời, lòng rung động khó tả.

Về nhà ông liền nói với mẹ là muốn lấy người con gái ấy. Mẹ ông giật mình cho rằng chuyện hão, nhưng ông không nghe mà cứ sắm đồ sính lễ bắt mẹ phải đi dạm hỏi.

Quan Thượng lấy làm lạ hỏi thì người mẹ kêu xin tha tội và kể đầu đuôi câu chuyện. Quan thượng nghe rồi cười mà bảo không hề gì rồi cho gọi ông đến xem “mặt mũi” như thế nào. Mặc mỗi một chiếc quần đùi, Hoàng Sầm đến sụp lạy trước thềm nhà.

Quan Thượng thư nói: – Con gái nhà quan, có đâu lại gả cho một kẻ bạch đinh. Hễ sau này anh làm nên sự nghiệp như ta, anh mới có thể lấy con gái ta được. Ông lạy hai lạy rồi thưa: Xin vâng mệnh quan lớn, nhưng cũng mong quan lớn giữ lời hứa cho.

Ngang tàng là Hoàng Sầm mà tự tin kỳ lạ cũng chính là Hoàng Sầm. Chưa học thì tin chắc rằng mình học được, khi đã học rồi thì tin chắc rằng mình thi đỗ, đỗ rồi thì tin chắc tiểu thư con quan Thượng thư sẽ chịu lấy mình.

Thượng thư chọn rể

Về nhà, giấu mẹ, ông bán trộm một sào ruộng được ba mươi quan, lần đường tìm tới kinh đô rồi xin làm học trò của một bậc danh Nho. Ba năm sau, ông đã giỏi lắm, nhân đó, lấy cớ là học trò bị bỏ sót tên, lên xin quan huyện Hiệp Hòa được dự khảo thí.

Ông trúng ở huyện, rồi đi thi Hương và đỗ Giải nguyên. Xong, ông nhờ người về báo cho quan Thượng thư và nhắc, xin quan Thượng thư chớ sai lời ước cũ, rồi về kinh đô dự thi Hội. Bấy giờ, con gái quan Thượng thư tuy đã có mấy đám đến dạm hỏi, nhưng cô chưa ưng ý ai, vẫn còn ở nhà.

Khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính đời nhà Mạc, lúc đó ông mới 27 tuổi, đỗ Thám Hoa. Hôm vinh quy bái tổ, ông trở về và làm đám cưới ngay giữa sân nhà quan Thượng thư.

 

Hình minh họa
(Nguồn: Sưu tập)

 
Người làng ai cũng cho là một vinh hạnh hiếm có. Sau, ông làm quan, được phong tới chức Lễ bộ Tả thị Lang, tước là Hoàng Phúc hầu.

Lại nói về vị Thượng thư nọ; ấy là Tiến sĩ Nguyễn Doãn Địch (1490 – ?), người xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa; năm 40 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân khoa (Hoàng giáp) khoa Kỷ sửu niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529) đời Mạc Đăng Dung, làm quan đến chức Thượng thư Lại bộ, Tế tửu Quốc Tử giám.

Câu chuyện trên cho thấy, Nguyễn Doãn Địch là một tiến sĩ, trọng danh dự, giữ chữ tín, người biết nhìn nhận, đánh giá, biết động viên ý chí vươn lên của con người, nhất là khơi dậy lòng tự trọng của thế hệ trẻ. Bởi vậy, ông đã góp cho đất nước một danh nhân khoa bảng tài dị trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Đó là người con rể đáng kính Hoàng Sầm.

Thông minh và ngang tàng

Bàn về Hoàng Sầm, các nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa đã viết: Phận dân phu mà dám cả gan liếc trộm cô tiểu thư đang chễm chệ trên kiệu do chính mình khiêng đi, ngang tàng đến thế kể cũng đã là lạ. Liếc rồi cầm lòng không được, ép mẹ phải đi hỏi cưới cô tiểu thư cho mình.

Thời ấy, hành vi ấy, Hoàng Sầm quả thật là đã làm chuyện… động trời. Ôi, thân trai nhà nghèo, gia sản ruộng nương chỉ có vài sào, tư trang thì quần đùi vỏn vẹn một chiếc… vậy mà vẫn dũng cảm sụp lạy trước thềm để xin hỏi cưới tiểu thư con gái của quan Thượng thư, chuyện này không chỉ là hiếm có mà phải nói là cổ kim chưa từng thấy mới đúng.

Song le, ngang tàng là Hoàng Sầm mà tự tin kỳ lạ cũng chính là Hoàng Sầm. Chưa học thì tin chắc rằng mình học được, khi đã học rồi thì tin chắc rằng mình thi đỗ, đỗ rồi thì tin chắc tiểu thư con quan Thượng thư sẽ chịu lấy mình.

Và, thông minh thay, Hoàng Sầm! Người ta học mòn sách một đời mà thi hỏng vẫn hoàn thi hỏng, còn ông, học chỉ ba năm đã đậu Thám hoa, hình như đầu ông nhận chữ chẳng khác gì đất quê ông đang khi hạn hán gặp mưa, thấm nhanh, thấm nhiều không thể tả được.

Nhưng nói cho ngay, con người ngang tàng, tự tin và thông minh đến kỳ lạ ấy, làm gì cũng đều rất nhanh chứ đâu có phải chỉ riêng chuyện học hành. Xem việc ông cưới cô tiểu thư con quan Thượng thư Nguyễn Doãn Địch hồi hưu, ắt cũng đủ thấy rồi.

Nguồn: khoahocdoisong.vn