287 lượt xem

Lê Quý Đôn

Nhà bác học Lê Quý Ðôn

Nhà bác học Lê Quý Ðôn (1726 -1784) Lê Quý Đôn nguyên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh ngày 2- 8-1726, trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, chăm học.

 Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn. Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754), Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757), Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767), Tán lý quân vụ, Thị phó đô ngự sử (năm 1768), Công bộ hữu thị lang (năm 1769), Bồi tụng (Phó thủ tướng) (năm 1773), Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776), Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783), Công bộ thượng thư (năm 1784)...

Lê Quý Đôn mất ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai táng ở quê nhà. Trong cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn, có mấy sự kiện sau có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Đó là chuyện đi sứ Trung Quốc năm 1760 - 1762. Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn lận với họ những vấn đề sử học, triết học...

Học vấn sâu rộng của ông được các học giả Trung Quốc, Triều Tiên rất khâm phục. ở đây, Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ, kể cả sách của người phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữ học, thủy văn học... Đó là các đợt Lê Quý Đôn đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường hào địa phương man khai, trốn thuế...

 Chính nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức Lê Quý Đôn trở nên phong phú vô cùng. Ông viết trong lời tựa sách Kiến văn tiểu lục: "Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm  việc công,  bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách".Ngoài đầu óc thông tuệ đặc biệt cộng với vốn sống lịch lãm và một nghị lực làm việc phi thường, phải kể đến thời đại mà  Lê  Quý Đôn sống. Và ông là đứa con đẻ, là  sản phẩm của thời đại ấy kết tinh lại.

Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ thứ 18 thời kỳ xã  hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Trong  lòng  xã  hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. ở thế kỷ 18, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa và Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở thành người "tập đại hành" mọi tri thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri  thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 đều được bao quát vào  trong  các  tác  phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.

 Tác  phẩm của Lê  Quý Đôn thống kê  có  tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc. Những tác phẩm tiêu biểu của Lê Quý Đôn còn giữ được có thể kể ra như sau:-Quần thư khảo biện, tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử, chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi.-Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn làm xong lúc ông 30 tuổi. Đây là một loại "bách khoa thư", trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... Vân đài  loại ngữ là  bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến.-Đại Việt thông sử, còn  gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Cung  Hoàng,  bao  quát  một thời gian hơn 100 năm của triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống Minh.-Kiến văn tiểu lục, là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê.

 Ông còn đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...-Phủ biên  tạp lục, được viết trong thời gian Lê  Quý Đôn làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình  hình  xã  hội. Đàng  Trong  từ thế kỷ thứ 18 trở về trước.Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509 -1516).

 Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc.Về sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê  Quý Đôn có Quế Đường văn tập 4 quyển, nhưng sách này đã mất. Về sáng tác thơ, Lê Quý Đôn để lại có Quế Đường thi tập khoảng  vài trăm bài làm ở trong nước  và  trong  thời  gian đi  sứ Trung Quốc.Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia".

Quan  niệm về thơ của Lê  Quý Đôn được tổng hợp lại như sau: "Làm thơ có 3 điểm chính:  một là tình, hai là cảnh, ba là  việc. Tiếng sáo thiên nhiên  kêu ở trong lòng  mà động vào  máy  tình;  thị giác tiếp xúc với ngoài,  cảnhđộng vào  ý,  dựa cổ mà  chứng kim, chép  việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần... đại để không ngoài ba điểm ấy".Đây là những tiêu chuẩn về thơ mà Lê Quý Đôn đề ra cho quá trình sáng tác của mình. Đọc thơ Lê Quý Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú đa dạng, sâu sắc về tư tưởng, nghệ thuật và để lại trong lòng ta những xúc động đẹp đẽ, sâu xa:

 
Thành cổ lộng

Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm,
Dây dưa, dây đậu leo quấn xanh tốt.
Sóng biết đã rửa sạch nỗi hận cho vua Trần,
Cỏ xanh khó che lấp sự hổ thẹn của Mộc Thạnh.
Sau trận mưa bò vàng cầy bật gươm cũ
Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn.
Bờ cõi cần gì phải mở rộng mãi
Đời Nghiêu Thuấn xưa chỉ có chín châu thôi.
 

Nức lòng giai thoại về thần đồng Lê Quý Đôn

Sự nghiệp trước tác của Lê Quý Đôn rất đồ sộ, ông đã viết 40 công trình nghiên cứu có giá trị bao quát hầu hết các tri thức đương thời như lịch sử, địa lý, thơ, văn, ngôn ngữ, triết học, kinh tế, xã hội, nông học, tổng loại… và trong di sản đồ sộ đó có Vân Đài loại ngữ, được nhiều nhà khoa học đánh giá như bộ Bách khoa thư Việt Nam...

 
Nhà bác học Lê Quý Đôn
(Nguồn: Sưu tập)

 

Cách thành phố Thái Bình khoảng 35 km về phía Bắc, Khu lưu niệm nhà bác học Lê Quý Đôn thuộc thôn Đông Phú (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà) là nơi lưu giữ, bảo tồn những hiện vật, dấu tích từng gắn bó với nhà bác học danh tiếng trong lịch sử. 

Thần đồng nức tiếng, nhà bác học lừng danh 

Lê Quý Đôn nguyên tên là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (tức ngày 2 tháng 6 năm 1726) ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ nay là thôn Đồng Phú, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Thân phụ là Lê Trọng Thứ đậu Tiến sĩ làm quan đến Thượng thư Bộ Hình được phong tước hầu, thân mẫu là Trương Thị Ích con gái Tiến sĩ Trương Minh Lương làm quan Hoằng Phái Hầu.

Thuở nhỏ Lê Quý Đôn là cậu bé nhanh nhẹn hoạt bát, học giỏi, thông minh vượt bậc. Năm 13 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên kinh đô học thầy là Tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Năm 14 tuổi, đã học hết Tứ thư, Ngũ kinh, sử, truyện và đọc đến cả Bách gia chư tử, một ngày có thể làm xong mười bài phú. Năm 17 tuổi, ông thi Hương đậu giải nguyên.


 

Khu lưu niệm nhà bác học Lê Quý Đôn tại thôn Đông Phú (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) 
(Nguồn: Sưu tập)

Sau mấy lần thi không đỗ, đến năm 26 tuổi thi Hội, ông đỗ đầu. Ông cũng đỗ đầu thi Đình, trúng bảng nhãn. Khoa thi này không lấy trạng nguyên, ông trở thành người đỗ đầu cả 3 kỳ thi. Sau đó, ông ra làm quan và giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình. Ông cũng là một nhà bác học có kiến thức uyên bác, gần như thâu tóm được mọi tri thức thời bấy giờ.

Năm 1759, dưới triều vua Lê Hiển Tông, Lê Quý Đôn được cử đi sứ nhà Thanh để báo tang khi Thái Thượng hoàng Lê Ý Tông qua đời. Khi sứ đoàn của ta đi qua các châu, phủ ở Trung Quốc đều bị gọi là “Di quan di mục” (tức “quan lại mọi rợ”). Bất bình, Lê Quý Đôn đã viết thư cho Tổng đốc Quảng Châu để phản đối. Với uy tín của mình, cùng lời văn chặt chẽ, đanh thép, triều đình Mãn Thanh buộc phải ra lệnh bỏ danh từ khinh miệt này và gọi sứ đoàn nước ta là An Nam Cống sứ.

Trong thời gian đi sứ phương Bắc, ông mang theo một số tác phẩm của mình cho nhiều nho thần Trung Quốc xem. Họ rất thán phục. Đề đốc Quảng Tây Chu Bội Liên, một học giả nổi tiếng đời Thanh đã nhận xét rằng: “Nước tôi có nhiều nhân tài, nhưng những người có tài như sứ quân đây chỉ được một vài người”.

Sự nghiệp trước tác của Lê Quý Đôn rất đồ sộ, ông đã viết 40 công trình nghiên cứu có giá trị bao quát hầu hết các tri thức đương thời như lịch sử, địa lý, thơ, văn, ngôn ngữ, triết học, kinh tế, xã hội, nông học, tổng loại… và trong di sản đồ sộ đó có Vân Đài loại ngữ, được nhiều nhà khoa học đánh giá như bộ Bách khoa thư Việt Nam. 



 

Khu lăng mộ Lê Quý Đôn 
(Nguồn: Sưu tập)

 

Sách vở, văn chương của Lê Quý Đôn rất mộc mạc, giản dị, phù hợp với mọi đối tượng, tầng lớp nhân dân, các ngành khoa học, nhất là những vấn đề ông tổng kết đưa vào thực tiễn cuộc sống được mọi người và các ngành khoa học đón nhận như những cẩm nang.

Nhà sử học Phan Huy Chú từng đánh giá: “Ông tư chất khác đời, thông minh hơn người… bình sinh làm sách rất nhiều, bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi mà bàn về điển cố thì đầy đủ, rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng ở trên đời”. 

Điểm du lịch văn hóa tâm linh

Cụm di tích đền thờ Lê Quý Đôn bao gồm từ đường thờ, lăng Lê Trọng Thức, khu hồ Lê Quý Đôn thuộc thôn Đồng Phú xã Độc Lập huyện Hưng Hà, cách TP Thái Bình khoảng 35km về phía Bắc và cách thị xã Hưng Yên khoảng 25km. Cụm di tích đã được trùng tu, sửa chữa, nâng cấp hệ thống hạ tầng điện, đường giao thông được đầu tư cải tạo xứng tầm với di tích đã được Bộ Văn hoá xếp hạng cấp quốc gia (năm 1987).

Khu từ đường được thiết kế theo hình chữ Tam bao gồm tòa bái đường năm gian, tòa trung đường và hậu cung, mỗi tòa ba gian. Các cụ trong dòng họ kể lại, tòa trung đường và hậu cung xưa kia là nhà cũ của cụ Lê Trọng Thứ, thân sinh ra Bảng Nhãn Lê Quý Đôn.

Ðây cũng là nơi chở che nhà bác học Lê Quý Ðôn suốt những năm tuổi thơ. Hiện nay là nơi thờ phụng của dòng họ song kiến trúc vẫn không có gì thay đổi so với trước. Trong tòa trung đường và hậu cung còn lưu giữ nhiều hoành phi, câu đối, ngai thờ từ thế kỷ XVIII. Toà bái đường của từ đường được tu sửa vào triều Nguyễn, kiến trúc bình thường như các từ đường gia tộc khác.


 

Lối vào khu lưu niệm 
(Nguồn: Sưu tập)

 

Điều đặc biệt là nơi đây còn lưu được bức đại tự chữ Hán đề 4 chữ: "Văn hiến truyền gia" do triều đình nhà Lê ban tặng được treo tại gian chính giữa. Hai gian bên cạnh cũng có bài trí hai bức đại tự, một bức ca tụng truyền thống học hành của dòng họ qua 4 chữ "Hàn mặc lưu hương" nghĩa là bút mực để lại hương thơm. Bức đại tự kia đề 4 chữ "Vật báu hồ trinh" gốc của mọi vật đều ở trời. Ba gian điện thờ (hậu cung) của từ đường là nơi đặt khảm gian, ngai và bài vị thờ tổ họ Lê, dưỡng tổ của họ Lê và tượng của Tiến sĩ Lê Trọng Thứ và bảng nhãn Lê Quý Đôn.

Nhìn chung kiến trúc từ đường thờ không cầu kỳ mà giữ nguyên nét kiến trúc nhà thờ họ vùng đồng bằng sông Hồng vào thế kỷ XVIII, tường xây gạch 3 gian, có hậu cung thờ, cột gỗ, mái lợp ngói ta. Đến từ đường thờ Lê Quý Đôn, mọi người đều nhận thấy sự bình dị của dòng họ Lê giống như bao dòng họ khác ở khu vực đồng bằng sông Hồng thời ấy và bây giờ.

Khu hồ Lê Quý Đôn theo gia sử và truyền thuyết thì đây là khu hồ nước nằm trong gia trạch của nhà Lê Trọng Thứ và Lê Quý Đôn. Trước đây hồ rất rộng, theo truyền ngôn lại ngày xưa hồ được thông ra sông Hồng, thuyền của cha con Lê Trọng Thứ có thể từ hồ ra sông Hồng và lên kinh đô được. Giữa hồ ngày xưa có một gò đất cao nằm giữa hồ có xây một nhà thuỷ tạ, là nơi Lê Quý Đôn đọc và viết sách vào thời kỳ 1742 - 1752 và những năm dạy học. Nay khu hồ đã bị thu hẹp, và được đầu tư tôn tạo đẹp đẽ, thoáng mát, xung quanh hồ có trồng hệ thống cây xanh, bờ hồ có kè bậc lên xuống. Tương truyền, chính hồ nước này là nơi Lê Quý Đôn thời còn nhỏ vẫn vui chơi, câu cá, chăm sóc vườn ao trong gia đình.

Trong những năm qua Nhà nước, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, tỉnh Thái Bình đã tập trung đầu tư nâng cấp cụm di tích, gồm từ đường, lăng Lê Trọng Thứ, hồ Lê Quý Đôn. Trong quy hoạch phát triển văn hoá và du lịch của tỉnh Thái Bình đã có kế hoạch đầu tư cho cụm di tích Lê Quý Đôn là một trong ba cụm di tích trọng điểm là Đền Trần, Đền Tiên La của huyện Hưng Hà để trở thành điểm du lịch văn hoá tâm linh của tỉnh.

Lễ hội tại cụm di tích đền thờ Lê Quý Đôn thường được tổ chức vào những ngày đầu năm âm lịch, ngày sinh của Lê Quý Đôn (ngày 2 tháng 6 âm lịch) và ngày rằm tháng 7 hàng năm. Đây là một trong những trọng điểm tham quan du lịch về văn hoá và tâm linh của tỉnh Thái Bình.

Nguồn: tailieu.vn