Lý Tử Tấn, sau này đổi tên là Nguyễn Tử Tấn, sinh năm 1378, quê ở Triều Đông, huyện Thượng Phúc, nay thuộc xã Tân Minh, Thường Tín, Hà Nội. Ông là một vị đại quan, một bậc đại nho gia nhập thế, đồng thời cũng là một văn nhân lớn…
Năm 23 tuổi, Lý Tử Tấn đỗ Thái học sinh khoa Canh Thìn 1400 niên hiệu Nguyên Khánh đời Hồ Quý Ly. Đây là năm nhà Hồ mới lên cầm quyền, có cho chấn chỉnh lại việc học hành, thi cử. Chẳng hạn, về cách thi, người nào đỗ kỳ thi Hương rồi, năm sau phải vào bộ Lễ thi lại; nếu đỗ thì năm sau nữa đi thi Hội; ai đỗ thì được gọi là Thái học sinh, tức Tiến sỹ. Thi đỗ, nhưng Lý Tử Tấn không ra làm quan cho nhà Hồ, bởi ông cho rằng nhà Hồ làm chuyện tiếm đoạt, không được lòng dân.
Năm 1406, nhà Minh bắt đầu cuộc xâm lược nước ta, đến 1407 thì chúng hoàn tất cuộc xâm chiếm và lập nên chính quyền đô hộ. Lập tức, ở nhiều miền đất nước, nhân dân ta vùng dậy chống giặc, vĩ đại nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi tiến hành năm 1416, đến năm 1428 thì thắng lợi hoàn toàn. Trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc vĩ đại này, Lý Tử Tấn, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Mộng Tuân…; cũng như Lê Lai, Đinh Lễ, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Chích… đã có mặt dưới lá cờ đại nghĩa của Lê Lợi. Lý Tử Tấn giữ trọng trách chuyên thảo các công văn, giấy tờ, thư tín…
Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lý Tử Tấn tiếp tục có mặt trong cuộc xây dựng vương triều mới. Ông làm quan tới chức Nhập nội hành khiển tri tam quán kiêm Nhập thị kinh diên, trải qua các triều Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. “Học vấn của ông rộng khắp, thời bấy giờ ai cũng trân trọng” (Phan Huy Chú). Lý Tử Tấn từng giữ chức hành khiển, từng đi sứ Chiêm Thành, từng phải lo lắng việc phòng thủ biên cương…
Lý Tử Tấn, hiệu Chuyết Am, cũng là một văn nhân lớn. Về sự nghiệp văn chương, ông có tác phẩm Chuyết Am thi tập, một số bài phú; ông viết lời thông luận cho sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, và viết lời phê điểm cho bộ sách Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên. Rất tiếc, tác phẩm chính là Chuyết Am thi tập đã bị thất truyền, hiện chỉ còn một số bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục, và có 5 bài phú chép trong Quần hiền phú tập. Nhìn chung, không gian thơ của Lý Tử Tấn là một không gian nhẹ nhàng, trong tĩnh. Cái không gian như vậy chỉ có thể thấy trong thế giới tinh thần tĩnh tại Á Đông xưa: Hoa lựu nở trước sân, cỏ mọc bờ ao/ Lầu gác trên nước không bụi bặm, ngày hạ dài/ Lớp lớp rêu phong mưa đã rửa sạch… (Bài Ngày hạ). Trong bài Đầu thu, người đọc gặp một thiên nhiên trong mát và quyến rũ với hương vị của đồng quê, của nắng gió, nước trời (tạm dịch): Nắng hè êm dịu xế tường vôi/ Mềm mại chồi sen quạt gió trời/ Sắc lẫn màu thu trời gợn sóng/ Ánh lồng vẻ núi nước trong ngời/ Cua vàng gạch óng vào đăng sớm/ Phật thủ da xanh nở múi rồi…
Thơ trữ tình của Lý Tử Tấn có giọng điệu vừa thanh cao vừa sâu lắng, lại rất bình dị. Nhưng nói tới sự nghiệp văn chương của ông, phải nói tới phú, nhất là bài Xương Giang phú. Đây là một kiệt tác trong văn học Việt Nam, là tác phẩm đỉnh cao của tài hoa viết phú, ca ngợi chiến thắng lịch sử Xương Giang năm 1427. Chiến thắng này, cùng với chiến thắng Chi Lăng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Minh. Lý Tử Tấn dồn tất cả xúc cảm và niềm sảng khoái lịch sử, dồn hết tinh lực vào ngọn bút: Này xem/ Cồn cát đây đó/ Bãi lau rườm rà/ Ìm ào sóng vỗ/ Dồn dập nước sa…Bấy giờ/ Thần xui nên mưu chước/ Trời giúp bậc khoan nhân/ Sắp quân và kén tướng/ Đánh giặc để cứu dân… Có thể nói, tư tưởng yêu nước, lòng tự hào dân tộc đã nhập thành bút lực của Lý Tử Tấn. Lời phú của Lý Tử Tấn cuồn cuộn như nước xiết, cuốn sạch bóng giặc thù: Toán này xô nhau trở giáo/ Toán kia bỏ chạy cùng đoàn/ Xương chất thành núi/ Máu chảy đầy hang/ Bốn cõi mây mờ quét sạch/ Giữa trời ánh sáng huy hoàng…
Hầu như tất cả tài năng văn chương và tấm lòng yêu nước của Lý Tử Tấn đã thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất qua Xương Giang phú. Ông cũng tỏ rõ một tầm nhìn sáng suốt và sâu sắc, khẳng định sự nghiệp đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt ta. Và khát vọng hòa bình, hạnh phúc cũng là tư tưởng trong văn chương Lý Tử Tấn:
Kéo dải sông Ngân rửa giáp binh
Sông này dài như dải áo, muôn thuở thanh bình…
Lý Tử Tấn qua đời năm 1457, thọ 80 tuổi, để lại cho đời những giá trị nhân bản sâu sắc, trong đó có những tác phẩm văn chương tiêu biểu cho văn học nước Việt ta thế kỷ XV. Đã hơn năm trăm năm trôi qua, Xương Giang Phú vẫn được người đời truyền tụng.
Tổng hợp: SGT Group